“Sức ép của trader là rất cao, nhiều lúc không chỉ là đồng lương đồng thưởng, mà còn là cả danh dự. Trong hoạt động trading thì chiến thắng bản thân nhiều hơn là chiến thắng các đối thủ khác. Chiến thắng bản thân là kiềm chế lòng tham, chấp nhận sai lầm, giải tỏa bế tắc, chấp nhận dừng cuộc chơi khi mất phương hướng”.
Quản lý rủi ro luôn là ưu tiên hàng đầu của các tổ chức chứ không phải mục tiêu lợi nhuận.
|
Người đứng đầu bộ phận tự doanh giao dịch hàng ngày
(hay được gọi là head trader) của một công ty chứng khoán lớn trên thị
trường chia sẻ như vậy với VnEconomy chuyện bếp núc công việc với những
áp lực và nguyên tắc ứng xử trên thị trường. Anh cũng xin được giấu tên
và danh tính công ty.
Ứng xử nhanh theo thị trường
Tôi nghe nói làm head trader chịu nhiều áp lực lắm
và tính cách của trader thường rất nóng nảy. Anh đã đập vỡ cái bàn phím
máy tính nào hay chưa?
Bản thân tôi thì chưa đập cái gì cả, nhưng đúng là áp
lực thì rất nhiều. Áp lực không chỉ từ đồng nghiệp, lãnh đạo công ty mà
còn là áp lực từ chính bản thân mình. Đâu phải lúc nào mình cũng đúng,
cũng chiến thắng được thị trường? Nhiều lúc suy nghĩ về một tình huống,
một kế hoạch mà mất ngủ đến 3-4 giờ sáng là bình thường vì quyết định
phải đưa ra ngay trong phiên giao dịch ngày mai. Còn chuyện miên man suy
nghĩ đi lướt qua đồng nghiệp hay lãnh đạo mà quên chào là thường xuyên!
Vậy anh đã có thời điểm nào bối rối, mất phương hướng hay chưa?
Cái này là thường xuyên. Vấn đề quan trọng là trong
trạng thái như vậy, anh hành động thế nào. Không ai có thể nhìn xuyên
suốt được thị trường. Với tôi, nếu danh mục đang lãi thì cho phép mình
do dự. Nếu danh mục bấp bênh ở ranh giới sắp lỗ mà bản thân vào trạng
thái mất phương hướng thì sẽ cắt hết để đứng ngoài. Quan điểm của tôi là
kiểm soát tối đa rủi ro, chấp nhận lợi nhuận vừa phải, thậm chí là
thấp.
Nôm na thì tự doanh được công ty đưa cho một cục tiền và có nhiệm vụ kinh doanh kiếm lợi. Cục tiền đó được phân bổ như thế nào?
Để vận hành nguồn vốn tự doanh thì phải có quy chế hoạt
động tự doanh, trong đó có quy định về phân bổ vốn, biện pháp hạn chế
rủi ro, trách nhiệm, quyền hạn của mỗi thành viên trong nghiệp vụ tự
doanh.
Hoạt động tự doanh thời kỳ trước thì nhiều công ty coi
là mũi nhọn trong nâng cao tài sản. Nhưng về lâu dài thị trường khó khăn
thì sẽ cắt giảm dần, để một tỉ lệ phân bổ vốn an toàn chứ không để toàn
bộ vốn điều lệ vào tự doanh. Ngưỡng an toàn khoảng 50% so với vốn chủ
sở hữu trở lại. Đây là mức phân bổ vốn an toàn giúp doanh nghiệp pháp
triển hài hòa, không quá rủi ro với những biến động thị trường.
Quy chế hoạt động tự doanh của công ty cũng có quy định
rất rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng cá nhân. Head trader thì được
quyền quyết định vị thế bao nhiêu, ông Tổng giám đốc quyết bao nhiêu. Dĩ
nhiên là phải có một hội đồng đầu tư với những quy định cụ thể, chẳng
hạn đến mức đầu tư nào thì phải thông qua Chủ tịch Hội đồng Quản trị.
Bản thân mỗi thành phần đều được phân theo cấp để phê duyệt hạn mức đầu
tư thì cũng có những ràng buộc để tránh quyết định một cách chủ quan,
duy y chí, tùy tiện.
Ngoài ra hoạt động tự doanh còn phải tuân theo các tiêu
chí về lựa chọn doanh nghiệp, có hạn mức phân bổ cụ thể, thời gian nắm
giữ rõ ràng. Thẩm quyền quyết về hạn mức vốn cũng phụ thuộc vào tính
chất của giao dịch. Chẳng hạn là hoạt động trading hàng ngày thì head
trader có quyền quyết một mức nhất định, phụ thuộc vào tính thanh khoản,
chỉ số cơ bản của doanh nghiệp đó…
Mức phân bổ vốn của anh với vai trò một head trader trong hoạt động trading hàng ngày là bao nhiêu?
Tôi được quyền quyết đối với các vị thế tối đa là 10 tỷ đồng.
Vậy các trader dưới quyền anh thì được phân bổ nguồn vốn cụ thể bao nhiêu cho hoạt động trading hàng ngày?
Thực ra năm nay công ty tôi phân bổ nguồn vốn không
nhiều cho hoạt động trading nên các trader không có quyền ứng xử trực
tiếp trên thị trường.
Vậy trong trường hợp nhận thấy cơ hội lớn và an toàn, liệu head trader có quyền vượt hạn mức hay không?
Hạn mức này cũng là một ranh giới mềm vì tính ứng xử
nhanh theo thị trường. Trong một vài trường hợp vị thế có thể tăng lên
20-30 tỷ đồng ngay tức khắc nhưng phải thông báo cho hội đồng đầu tư
đồng thời tuân theo danh mục và phương án đã có sẵn, và không được vượt
quá quy mô tổng nguồn vốn lên kế hoạch từ đầu. Trường hợp phát sinh như
vậy chỉ cần gửi e-mail thông báo để “vote” ngay trong phiên là hạn mức
của tôi có được nâng lên hay không. Điều này phải có kế hoạch ứng xử từ
trước để tất cả các thành viên tập trung xử lý trường hợp phát sinh này
bên cạnh những công việc thường ngày.
Các thành viên hội đồng đầu tư có thể san xẻ cho nhau.
Chẳng hạn anh Tổng giám đốc được cấp hạn mức cao gấp đôi tôi. Khi hàng
ngày đã theo dõi danh mục vận hành, cách ứng xử với thị trường của tôi
thì có thể đánh giá tôi có tỉnh táo trong những trường hợp như vậy
không.
Ở đây có sự trơn chu trong quá trình vận hành hệ thống,
sự tin cậy cũng như tính nhạy bén của người lãnh đạo. Đôi khi người
lãnh đạo phải biết được các trader của mình có bối rối, lúng túng và bị
sức ép của chính thị trường cũng như đồng nghiệp. Chẳng hạn trạng thái
khi thị trường tăng, vị thế không đem lại lợi nhuận, trader giữ vị thế
đó sẽ bị sức ép và bị rối, có thể dẫn đến những quyết định mất phương
hướng. Sự chia sẻ của lãnh đạo lúc đó là rất quan trọng, có thể chấp
nhận dừng cuộc chơi hoặc có phương án xử lý khác tốt hơn với quan điểm
là không để mất tiền. Bản thân tôi cũng làm như vậy với các trader dưới
quyền.
Kế hoạch luôn phải lên trước từ đầu phiên
Quy trình cụ thể đối với việc lựa chọn danh mục trading của công ty như thế nào?
Hoạt động trading không thể gò bó các quy trình “thưa
bẩm” quá dài. Tín hiệu thị trường là rất nhanh và trading là phải theo
thị trường. Nếu cứ phải làm kế hoạch, trình các cấp phê duyệt, triệu tập
hội đồng đầu tư thì không kịp. Hội đồng đầu tư sẽ xét duyệt danh mục
tiềm năng cho hoạt động trading từ đầu quý hoặc đầu năm. Thực ra việc
lên danh mục trading cũng tạo khoảng rộng đủ để có các quyết định linh
hoạt.
Danh mục này đã được phân tích bài bản, lên các phương
án cụ thể, lấy ý kiến các thành phiên hội đồng đầu tư. Bộ phân phân tích
sẽ đưa ra ý kiến độc lập đối với các phương án của ban đầu tư.
Các khâu cụ thể để lên một danh mục đầu tư cuối cùng
là: đề xuất phương án, thẩm định và cuối cùng là phê duyệt. Tất cả các
bộ phận đều có thể đề xuất phương án và mỗi bộ phận tự phân tích phương
án của mình. Sau đó chắt lọc ra một phương án tối ưu. Khi đó bộ phận
phân tích bắt đầu soi vào và có ý kiến độc lập, phân tích lại để xây
dựng danh mục cuối cùng. Danh mục này phải đưa ra bảo vệ trước hội đồng
đầu tư.
Vậy có khi nào xuất hiện mâu thuẫn giữa tính cơ bản với tính thị trường của các cổ phiếu trong danh mục không?
Các mâu thuẫn đó phải được xem xét kỹ lưỡng. Một cổ
phiếu tốt về mặt cơ bản nhưng có thể không tốt về mặt thị trường như
thanh khoản thấp. Bộ phận phân tích và bộ phận tự doanh có thể thảo luận
với nhau và ưu tiên hơn thuộc về tự doanh vì họ sẽ là người trực tiếp
tham gia thị trường tại những cổ phiếu đó. Có những cách để hài hòa mâu
thuẫn. Chẳng hạn cổ phiếu tốt, thanh khoản kém thì có thể giảm tỉ trọng
phân bổ vốn xuống.
Trong công ty chỉ có head trader được phân hạn mức,
vậy mối quan hệ cụ thể giữa head trader với các trader dưới quyền như
thế nào?
Các bạn trader sẽ lên các kế hoạch, phương án, danh
mục, làm tổng kết hàng ngày và gửi lên cho tôi. Ví dụ danh mục có 5 mã,
các bạn sẽ đóng góp ý kiến, nên chủ đạo ở mã nào, chiến lược trading cụ
thể và cùng bàn bạc. Khi đó head trader nhận thấy trader nào có phương
án tối ưu thì sẽ được phân công trực tiếp xử lý trong ngày. Vai trò
chính của head trader là định hướng, lựa chọn người phù hợp, chiến lược
phù hợp và phân giao công việc, kiểm soát hoạt động theo chiến lược đã
định.
Việc kiểm soát các vị thế, cân bằng danh mục diễn ra hàng ngày?
Tôi yêu cầu các trader phải cập nhật vị thế ngay trong
phiên. Thậm chí khớp lệnh đến đâu phải báo cáo đến đó để tôi cân bằng
được giá trị danh mục tổng thể. Khi một trader đã tập trung tối đa vào
công việc của mình, họ đâu có hình dung được các mã khác biến động thế
nào và tổng thể danh mục trading của bộ phận như thế nào?
Đôi lúc người head trader cũng phải can thiệp vào công
việc cụ thể. Nhiều trường hợp các trader cũng lúng túng, mất phương
hướng. Chẳng hạn, kế hoạch ban đầu là nếu phiên hôm nay có một cú hồi,
chúng ta sẽ bán ra ở khoảng mức bao nhiêu, khối lượng nào. Nhưng đôi khi
giá hồi quá mạnh và trader lại có tâm lý chờ thêm nữa, tức là chấp nhận
rủi ro cao hơn. Khi đó head trader là người chịu trách nhiệm chính phải
ra quyết định, tạo yếu tố tâm lý để các trader quả quyết hơn.
Vậy trong hoạt động trading thực tế, việc kiểm soát phân bổ vốn cho từng cổ phiếu cụ thể như thế nào?
Kế hoạch luôn phải lên trước từ đầu phiên và các giao
dịch cơ bản tuân thủ kế hoạch này. Kế hoạch đã dự kiến khoảng giá cụ
thể, cách ứng xử mua bán cụ thể. Tuy nhiên vẫn có những lúc phải phản
ứng nhanh. Chẳng hạn ban đầu dự kiến thoát danh mục 30 tỷ đồng trong vài
phiên, nhưng đột biến thị trường có thể quyết thoát toàn bộ ngay trong
một phiên.
Việc phân chia trách nhiệm trong hoạt động trading của bộ phận như thế nào?
Head trader chịu hoàn toàn trách nhiệm cho các giao dịch.
Như thế các giao dịch thua lỗ ở từng cổ phiếu cụ thể do các trader cụ thể phụ trách cũng chỉ người đứng đầu chịu?
Việc phân quyền rất rõ ràng. Các trader không được phân
bổ vốn thì cũng không phải chịu tránh nhiệm về rủi ro. Quan hệ quyền
lợi/rủi ro phải rõ ràng. Quyền càng cao thì trách nhiệm càng lớn. Chẳng
hạn nếu tôi vượt hạn mức thì những người đồng ý cũng phải chịu trách
nhiệm cùng.
Công ty có cơ chế nào để tăng hạn mức phân bổ vốn
cho hoạt động trading hay không, chẳng hạn tăng theo tỉ lệ lợi nhuận
kiếm được?
Kế hoạch phân bổ vốn đã được hoạch định từ đầu năm và
do hội đồng đầu tư quyết định, chẳng hạn bao nhiêu phần trăm của vốn chủ
sở hữu sẽ được dùng trong năm nay. Kế hoạch này khá dài hơi và con số
cũng cố định trong một thời gian. Chẳng hạn năm nay kế hoạch chúng tôi
tham gia thị trường 150 tỷ đồng thì thẩm quyền của tôi cũng tương xứng
với một tỉ lệ nào đó. Ngoài cái khung chiến lược của hội đồng đầu tư thì
bộ phận trading cũng đề xuất chiến lược và tỉ trọng hạn mức đầu tư.
Chẳng hạn trong 100 tỷ thì hạn mức cho trading khoảng 30 tỷ, nếu là 150
tỷ thì khoảng 50 tỷ.
Công ty có cơ chế khuyến khích nào cho các trader không?
Đương nhiên là có phần bonus (phần thưởng - PV) tính
trên phần lợi nhuận ròng kiếm được. Chúng tôi có phân định rõ ở mức lợi
nhuận kiếm được thế này thì thưởng bao nhiêu, phân bổ về từng trader bao
nhiêu. Cơ chế như vậy đương nhiên phải có.
Vậy con số cụ thể là bao nhiêu?
Trong khoảng 10-15% phần lợi nhuận ròng kiếm được tính
theo năm và trên cơ sở giá trị đã chốt (đã bán) chứ không phải giá trị
danh mục. Lợi nhuận trading ở đây là lợi nhuận ròng sau khi đã trừ đi
tất cả các chi phí vốn. Ví dụ trading 10 tỷ, lời 5 tỷ thì phải tính cả
lãi suất huy động vốn cũng như các chi phí khác liên quan đến hoạt động.
Anh đánh giá thế nào về mức thưởng như vậy?
Tôi nghĩ tỉ lệ như vậy là hài hòa. Cũng có người nghĩ
là thấp quá, cũng có người nghĩ là hơi cao. Đối với người nghĩ thấp thì
họ chưa nghĩ đến trường hợp nếu rủi ro xảy ra. Bản thân các trader không
có ai bỏ tiền ra để bù thua lỗ cả. Nếu anh làm một việc không phải gánh
chịu rủi ro thì làm sao anh đòi hỏi một con số lợi nhuận cao được? Tôi
nghĩ mức 10-15% là con số hấp dẫn rồi. Nếu trading với một số tiền lớn
và hiệu quả tốt thì khoản thưởng cũng không phải là nhỏ.
Quy trình quản lý rủi ro trong bộ phận trading của anh là như thế nào?
Có nhiều tiêu chí để hạn chế rủi ro. Chẳng hạn khi
quyết định trading một cổ phiếu thì không được vượt quá khối lượng giao
dịch bình quân của cổ phiếu đó trong một khoảng thời gian nhất định. Đó
cũng là cơ sở để phân bổ vốn cho hợp lý. Còn về danh mục thì phải bảo vệ
được về các yếu tố cơ bản từ đầu năm và được cập nhật theo quý như kết
quả kinh doanh, chứ không phải cứ ngẫu hứng nhảy bổ vào mua một cổ
phiếu. Khi phân tích cơ bản thì đã có sự đóng góp ý kiến của nhiều bộ
phận, thậm chí cả tiếp xúc trực tiếp với doanh nghiệp. Ngay cả hoạt động
trading đặt lệnh cũng có phần mềm cảnh báo, chẳng hạn vượt quá giá trị
nhất định là cảnh báo head trader ngay lập tức.
Đôi khi hoang mang như ở ngã ba đường
Về rủi ro thị trường thì sao?
Kế hoạch trading hàng ngày đã dự kiến các tình huống và
có họp bàn trước. Ngưỡng cắt lỗ hiện tại là 8%. Mức này thuộc thẩm
quyền của head trader. Mức này là tiêu chuẩn cho từng mã. Những trường
hợp mà không thể cắt được như mất thanh khoản thì mức lỗ vượt 15% phải
triệu tập hội đồng đầu tư. Thực tế thì mức lỗ 15% là thị trường đã diễn
biến rất nhanh và mạnh, đòi hỏi bộ máy phải rất gắn kết và chia sẻ với
bộ phận trading.
Vậy đâu là những tín hiệu rủi ro đầu tiên anh nhìn vào khi quản lý một danh mục trading hàng ngày?
Quan sát đầu tiên là xu hướng thị trường. Vận động của
thị trường là trọng yếu. Khi xu thế đã mạnh thì rất ít cổ phiếu đi ngược
lại. Cảnh báo thứ hai là các thông tin về doanh nghiệp. Tiếp nữa là các
thông tin có thể gây sốc, chẳng hạn vụ bắt bớ vừa rồi. Một trader chỉ
cảm nhận ảnh hưởng của thông tin từ yếu tố thị trường, như lượng bán
lớn, giá sụt mạnh, tức là cảm nhận chỉ về phân tích kỹ thuật và giao
dịch. Head trader phải có tầm nhìn bao quát hơn, đánh giá thông tin rộng
hơn để quyết định, chẳng hạn thoát toàn bộ danh mục ngay lập tức.
Bộ phận trading có khi nào xung đột quan điểm với nhau hay không và cách xử lý như thế nào?
Đó là điều đương nhiên và tôi rất khuyến khích. Điều
này giúp mọi người không tự tin thái quá, phải luôn vận động suy nghĩ
thấu đáo vấn đề. Ngược lại, điều này đôi khi cũng khiến các trader rơi
vào trạng thái hoang mang như đứng ở ngã ba đường.
Vai trò lúc đó thuộc về head trader. Lúc tranh luận thì
các trader có vẻ căng thẳng nhất, nhưng thực ra head trader mới là
người căng thẳng vì về nhà là các bạn đó không còn trách nhiệm gì nhưng
tôi có thể mất ngủ để chọn một phương án hợp lý.
Trước khi làm head trader cho một tổ chức anh cũng đã từng đầu tư cá nhân. Vậy sự khác biệt lớn nhất là gì?
Đầu tư cá nhân ban đầu đương nhiên là lúc mới vào nghề
đều manh mún, chưa có các khái niệm cơ bản như quản lý rủi ro. Thực ra
trong đầu tư thì kinh nghiệm là quan trọng nhất. Khi mới vào nghề thì dễ
tìm được một phương pháp hay hệ thống trading rất hiệu quả. Nhưng càng
lâu sẽ càng nhận thấy hệ thống đó chỉ hiệu quả trong một giai đoạn thời
gian nhất định, với một số cổ phiếu nhất định. Khi mở rộng hệ thống ra
sẽ gặp rất nhiều sai lầm.
Khó khăn nhất là xử lý những mâu thuẫn trong chính hệ
thống trading của mình, đến mức có thể thành “loạn chưởng”, rất ức chế.
Thông thường khi đó người thiếu kinh nghiệm sẽ lấy cái sai lớn để sửa
cái sai nhỏ, đi đến hết sai lầm này đến sai lầm khác.
Khi làm việc cho tổ chức, điều may mắn là có không gian
riêng, không bị áp lực quá lớn. Những lúc tôi cảm thấy khó khăn đưa
nhận định về thị trường thì tôi đứng ngoài, không tham gia. Nếu cứ cố
gắng đưa ra một quyết định hay gượng ép phải tham gia thị trường vì một
áp lực nào đó thì rất dễ dắt tay nhau “xuống núi” luôn.
Anh có nói đến sự khác biệt trong quản lý rủi ro giữa đầu tư cá nhân với làm việc cho tổ chức. Cụ thể là gì?
Đương nhiên là ở tầm tổ chức thì quy trình, quy chế là
rõ ràng, khác biệt. Khi đầu tư với nguồn tiền của mình thì tâm lý chấp
nhận rủi ro thường cao hơn. Khi sử dụng nguồn vốn của tổ chức thì phải
tuân thủ những quy định nghiêm ngặt.
Vậy cảm nhận của anh thế nào khi những nhà đầu tư
cá nhân ngoài kia kiếm lời cả 100% trong khi con số báo cáo của anh chỉ
20-25%?
Tôi cũng biết có những người nhân được 3 lần tài khoản
còn tôi chỉ kiếm được có 3%. Tôi vẫn cảm thấy bình thường. Đó là cuộc
chơi mà họ thắng, họ giỏi hơn mình. Nhưng trong đầu tư chứng khoán không
ai nói tài được. Anh có thể giỏi ở chặng này nhưng lại thất bại ở chặng
khác. Người kiếm được 300% có thể sẽ mất 300% ở lúc khác. Người chỉ
kiếm được 3% lại chỉ mất đi 3% mà thôi.
Có vẻ như vấn đề nằm ở kỷ luật chấp nhận rủi ro/lợi nhuận?
Quá trình đầu tư là một chặng đường rất dài. Giá trị
cần so sánh không phải là trong một phi vụ đầu tư nào đó. Mức độ chấp
nhận rủi ro và lợi nhuận bao nhiêu là hợp lý là một lựa chọn không dễ
dàng. Chẳng hạn với một thị trường đầu cơ, giá sẽ tăng đến một mức mà
tôi thấy đủ, quá nữa thì không tốt và tôi thoát ra. Nhưng vì tính đầu cơ
nên giá vẫn tăng tiếp, người giỏi có thể kiếm lời nhiều hơn, nhưng tôi
chấp nhận đứng ngoài, hài lòng với những gì mình kiếm được và không còn
rủi ro.
Với một khoản đầu tư cụ thể, mức lãi bao nhiêu là anh hài lòng?
20%. Trong khoảng 20-25% là tôi xác định “out”! Nói gì
thì nói, có một đồng tiền thực đút vào túi mình tức là còn dư địa cho
các hoạt động tiếp theo.
Anh suy nghĩ gì giữa việc anh chấp nhận rủi ro 8% để lãi 20% so với việc chấp nhận rủi ro 50% để lãi 100%?
Đây là mức độ chấp nhận rủi ro của từng người. Như tôi
nói lúc đầu, nhà đầu tư dùng tiền của mình thường có xu hướng chấp nhận
rủi ro cao, trong khi người dùng vốn của tổ chức chọn rủi ro thấp, đề
cao tính an toàn. Ngay với nhà đầu tư cá nhân, dùng margin cũng là một
hình thức vốn của người khác. Thực tế đã cho thấy margin cao mà vẫn chấp
nhận rủi ro cao thì rất dễ cháy tài khoản. Nếu cho tôi lựa chọn, tôi
luôn chọn rủi ro 8% để lãi 20%. Tôi quan tâm nhiều hơn đến một sự bền
bỉ, vững chắc trong hoạt động trading, an toàn là hàng đầu.
Mạng lưới thông tin riêng
Những kênh tin tức mà anh thường tiếp nhận là gì?
Trader nói chung cũng như head trader luôn phải nghe
ngóng thông tin từ mọi nguồn có thể. Phần lớn tôi hay sử dụng kênh chat
Skype, thông tin thường rất nhanh nhạy. Đây như thể là một mạng lưới
thông tin vô hình mà hầu hết các trader đều có kết nối vào. Dĩ nhiên
những thông tin không chính thống luôn phải kiểm tra. Chúng tôi cũng
phải ngồi với nhau để đánh giá thông tin này là lộng ngôn hay sai sự
thật, hay chính xác.
Kênh thông tin đó là do các trader tự tổ chức?
Không chỉ các trader mà tất cả các nhà đầu tư có mặt
trên thị trường đều có thể tham gia. Họ tự thành lập hoặc gia nhập những
“room chat”. Ví dụ anh mở ra một “room chat” mà tôi thấy anh nhận định
thị trường sắc sảo, có nhiều ý giống tôi thì tôi xin tham gia room đó.
Qua room này tôi lại thấy có thành viên khác thường xuyên có những tin
rất nhạy và chính xác thì tôi lại phải tìm hiểu và kết nối, chia xẻ cũng
như tiếp nhận thông tin.
Mạng lưới thông tin này không chính thống nhưng thậm
chí còn nhanh nhạy và sôi động hơn nhiều. Anh có thể tưởng tượng như có
hàng ngàn con mắt cùng soi vào biến động giao dịch, cùng giương ăng-ten
nghe ngóng thông tin thì độ đa dạng đến mức nào.
Nguyễn Hoàng
tbktvn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét