HNXINDEX
Thứ Sáu, 5 tháng 4, 2013
Thứ Năm, 4 tháng 4, 2013
Nợ đầm đìa: chọn vỡ nợ hay chọn lạm phát?
Có chọn cách nào thì người tiết kiệm vẫn thiệt nhất.
Xem thêm: Cách móc túi dân hiệu quả hơn cả đánh thuế
Lạm phát hoặc giảm phát và vỡ nợ. Kể từ khi khủng hoảng 2007-08 bùng nổ, nước nào nợ nhiều chỉ có chừng ấy lựa chọn.
Tốt nhất vẫn là dùng tăng trưởng để giải quyết mọi thứ, nhưng thập niên trước tăng trưởng rất tệ (tính từ năm 2000 đến năm 2009 nên chắc chắn kết quả này không phải do thắt lưng buộc bụng mà ra).
Vì sao lại thế? Người ta đang soi mói quá nhiều chuyện nợ công trong khi vấn đề thực sự là tổng nợ của toàn nền kinh tế, bao gồm cả khu vực tài chính, doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Nợ công thường tăng mạnh khi các khu vực khác suy thoái, ví dụ như năm 2010 nợ công của Síp chỉ là 61% GDP.
Hãy nghĩ nợ như một quyền truy đòi tài sản.
Khi ngân hàng cho bạn vay, bạn sẽ có tài sản dưới dạng tiền mặt để mua hàng hóa dịch vụ (như một căn nhà). Ngân hàng cũng có tài sản là một khoản vay ghi nhận trên bảng cân đối kế toán. Khi con nợ dùng tiền vay mua nhà, nợ trên GDP tăng mà sản lượng cũng tăng.
Mọi thứ vẫn tốt đẹp chừng nào chủ nợ tin tưởng con nợ vẫn trả được tiền. Thực tế, phần lớn nợ trong nền kinh tế hiện đại chỉ được ‘đảo’ mà thôi, ví dụ như doanh nghiệp vay thêm tiền hay người mua nhà thay tổ chức cho vay thế chấp khác. Và chủ nợ vẫn cứ tự tin nếu GDP còn tăng (tức thu nhập của con nợ tăng).
Do đó một nước có thể nợ gấp nhiều lần GDP, tức có nhiều “quyền truy đòi tài sản” hơn so với sản lượng hàng hóa dịch vụ mỗi năm. Đương nhiên, tài sản của một nước (dưới dạng đất đai, khoáng sản, …) có thể gấp nhiều lần GDP, thế nên nợ nhiều chưa chắc đã đáng sợ.
Nhưng vấn đề là mỗi năm chỉ có thể hiện thực hóa được một phần nhỏ tài sản quốc gia mà thôi. Ví dụ như nếu tất cả người Mỹ muốn bán nhà trả nợ, thì ai sẽ mua?
Tương tự, khi nợ gấp nhiều lần GDP, mỗi năm sẽ cần “đảo nợ” phần lớn GDP. Ví dụ như nợ bằng 400% GDP và thời gian đáo hạn trung bình là 5 năm; thế thì mỗi năm cần “đảo nợ” tới 80% GDP.
Nếu chủ nợ nghi ngờ khả năng trả nợ của con nợ, như khi giá tài sản giảm hoặc thu nhập trì trệ, họ sẽ không còn muốn gia hạn nợ nữa.
Nếu trả nợ bằng tiền mình đang có, khả năng chi tiêu của con nợ sẽ giảm xuống. Nếu phải bán tài sản để trả nợ, giá tài sản sẽ giảm.
Và nếu không trả được nợ, nợ xấu sẽ xuất hiện trên bảng cân đối kế toán của chủ nợ.
Dưới kịch bản nào, nền kinh tế cũng bị tổn thương.
Thực tế, hãy nghĩ các nền kinh tế nợ nhiều giống như một ngân hàng. Ngân hàng còn hoạt động chừng nào phần lớn người gửi tiền còn chưa rút vốn về. Nền kinh tế cũng chỉ có thể hoạt động chừng nào phần lớn chủ nợ còn sẵn sàng gia hạn nợ.
Do đó, trong nền kinh tế cũng có những vụ “tháo chạy” như với ngân hàng.
Khi vụ “tháo chạy” như thế xuất hiện ở khu vực tư nhân, chính phủ có thể can thiệp, giải cứu và nhận nợ thay.
Làm thế cũng được chừng nào chủ nợ còn niềm tin vào chính phủ. Như trường hợp Nhật Bản, vì chủ nợ toàn dân Nhật, nên tình thế hiện nay có thể ổn định trong một khoảng thời gian tương đối dài.
Nhưng nếu chủ nợ là nước ngoài như trường hợp các nước eurozone, cần phải ‘tái cơ cấu’ (tức xóa) một phần nợ.
Rõ ràng sẽ có người phải chịu thiệt. Nếu bạn là người Síp với hơn 100.000 euro để ở hai ngân hàng lớn nhất nước, chắc bạn phải đang buồn lắm.
Đương nhiên, tiền gửi là món nợ của ngân hàng, nên cũng là một loại “quyền truy đòi tài sản”, nếu không có đủ tài sản để đáp ứng tất cả “quyền truy đòi”, thì ai đó sẽ phải mất tiền.
Thường người nào tiết kiệm càng nhiều càng mất nhiều, vì họ là có nhiều tiền nhất trong ngân hàng.
Thay vì vỡ nợ, có thể dùng lạm phát bằng cách in tiền thật nhiều để chủ nợ chỉ mất tiền nếu tính theo giá thực tế chứ không phải giá danh nghĩa (tức để lãi suất thực âm). Có lẽ các chương trình “nới lỏng định lương” chính là nhằm mục đích này.
Tuy vậy, đến nay các NHTW vẫn chưa đạt được mức lạm phát và tăng thu nhập như mong muốn. Nếu thu nhập tăng, cá nhân sẽ dễ trả nợ hơn.
Thay vào đó, các nước phương Tây thường phải nhập khẩu lạm phát do giá hàng hóa cơ bản tăng lên. Rõ ràng, điều đó làm lương thực tế giảm và cá nhân khó trả nợ hơn.
Nói tóm lại, thế giới đã trải qua khủng hoảng được gần 6 năm mà vẫn chưa giảm được nợ mấy và do đó, vẫn dễ bị khủng hoảng tấn công mà Síp là ví dụ mới nhất.
Và chúng ta vẫn chưa quyết định được xem nên vỡ nợ luôn hay giảm nợ bằng lạm phát. Dù có chọn cách nào, thì người tiết kiệm vẫn thiệt nhiều nhất.
Lạm phát hoặc giảm phát và vỡ nợ. Kể từ khi khủng hoảng 2007-08 bùng nổ, nước nào nợ nhiều chỉ có chừng ấy lựa chọn.
Tốt nhất vẫn là dùng tăng trưởng để giải quyết mọi thứ, nhưng thập niên trước tăng trưởng rất tệ (tính từ năm 2000 đến năm 2009 nên chắc chắn kết quả này không phải do thắt lưng buộc bụng mà ra).
Vì sao lại thế? Người ta đang soi mói quá nhiều chuyện nợ công trong khi vấn đề thực sự là tổng nợ của toàn nền kinh tế, bao gồm cả khu vực tài chính, doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Nợ công thường tăng mạnh khi các khu vực khác suy thoái, ví dụ như năm 2010 nợ công của Síp chỉ là 61% GDP.
Hãy nghĩ nợ như một quyền truy đòi tài sản.
Khi ngân hàng cho bạn vay, bạn sẽ có tài sản dưới dạng tiền mặt để mua hàng hóa dịch vụ (như một căn nhà). Ngân hàng cũng có tài sản là một khoản vay ghi nhận trên bảng cân đối kế toán. Khi con nợ dùng tiền vay mua nhà, nợ trên GDP tăng mà sản lượng cũng tăng.
Mọi thứ vẫn tốt đẹp chừng nào chủ nợ tin tưởng con nợ vẫn trả được tiền. Thực tế, phần lớn nợ trong nền kinh tế hiện đại chỉ được ‘đảo’ mà thôi, ví dụ như doanh nghiệp vay thêm tiền hay người mua nhà thay tổ chức cho vay thế chấp khác. Và chủ nợ vẫn cứ tự tin nếu GDP còn tăng (tức thu nhập của con nợ tăng).
Do đó một nước có thể nợ gấp nhiều lần GDP, tức có nhiều “quyền truy đòi tài sản” hơn so với sản lượng hàng hóa dịch vụ mỗi năm. Đương nhiên, tài sản của một nước (dưới dạng đất đai, khoáng sản, …) có thể gấp nhiều lần GDP, thế nên nợ nhiều chưa chắc đã đáng sợ.
Nhưng vấn đề là mỗi năm chỉ có thể hiện thực hóa được một phần nhỏ tài sản quốc gia mà thôi. Ví dụ như nếu tất cả người Mỹ muốn bán nhà trả nợ, thì ai sẽ mua?
Tương tự, khi nợ gấp nhiều lần GDP, mỗi năm sẽ cần “đảo nợ” phần lớn GDP. Ví dụ như nợ bằng 400% GDP và thời gian đáo hạn trung bình là 5 năm; thế thì mỗi năm cần “đảo nợ” tới 80% GDP.
Nếu chủ nợ nghi ngờ khả năng trả nợ của con nợ, như khi giá tài sản giảm hoặc thu nhập trì trệ, họ sẽ không còn muốn gia hạn nợ nữa.
Nếu trả nợ bằng tiền mình đang có, khả năng chi tiêu của con nợ sẽ giảm xuống. Nếu phải bán tài sản để trả nợ, giá tài sản sẽ giảm.
Và nếu không trả được nợ, nợ xấu sẽ xuất hiện trên bảng cân đối kế toán của chủ nợ.
Dưới kịch bản nào, nền kinh tế cũng bị tổn thương.
Thực tế, hãy nghĩ các nền kinh tế nợ nhiều giống như một ngân hàng. Ngân hàng còn hoạt động chừng nào phần lớn người gửi tiền còn chưa rút vốn về. Nền kinh tế cũng chỉ có thể hoạt động chừng nào phần lớn chủ nợ còn sẵn sàng gia hạn nợ.
Do đó, trong nền kinh tế cũng có những vụ “tháo chạy” như với ngân hàng.
Khi vụ “tháo chạy” như thế xuất hiện ở khu vực tư nhân, chính phủ có thể can thiệp, giải cứu và nhận nợ thay.
Làm thế cũng được chừng nào chủ nợ còn niềm tin vào chính phủ. Như trường hợp Nhật Bản, vì chủ nợ toàn dân Nhật, nên tình thế hiện nay có thể ổn định trong một khoảng thời gian tương đối dài.
Nhưng nếu chủ nợ là nước ngoài như trường hợp các nước eurozone, cần phải ‘tái cơ cấu’ (tức xóa) một phần nợ.
Rõ ràng sẽ có người phải chịu thiệt. Nếu bạn là người Síp với hơn 100.000 euro để ở hai ngân hàng lớn nhất nước, chắc bạn phải đang buồn lắm.
Đương nhiên, tiền gửi là món nợ của ngân hàng, nên cũng là một loại “quyền truy đòi tài sản”, nếu không có đủ tài sản để đáp ứng tất cả “quyền truy đòi”, thì ai đó sẽ phải mất tiền.
Thường người nào tiết kiệm càng nhiều càng mất nhiều, vì họ là có nhiều tiền nhất trong ngân hàng.
Thay vì vỡ nợ, có thể dùng lạm phát bằng cách in tiền thật nhiều để chủ nợ chỉ mất tiền nếu tính theo giá thực tế chứ không phải giá danh nghĩa (tức để lãi suất thực âm). Có lẽ các chương trình “nới lỏng định lương” chính là nhằm mục đích này.
Tuy vậy, đến nay các NHTW vẫn chưa đạt được mức lạm phát và tăng thu nhập như mong muốn. Nếu thu nhập tăng, cá nhân sẽ dễ trả nợ hơn.
Thay vào đó, các nước phương Tây thường phải nhập khẩu lạm phát do giá hàng hóa cơ bản tăng lên. Rõ ràng, điều đó làm lương thực tế giảm và cá nhân khó trả nợ hơn.
Nói tóm lại, thế giới đã trải qua khủng hoảng được gần 6 năm mà vẫn chưa giảm được nợ mấy và do đó, vẫn dễ bị khủng hoảng tấn công mà Síp là ví dụ mới nhất.
Và chúng ta vẫn chưa quyết định được xem nên vỡ nợ luôn hay giảm nợ bằng lạm phát. Dù có chọn cách nào, thì người tiết kiệm vẫn thiệt nhiều nhất.
Minh Tuấn
Theo TTVN/The Economist
Thứ Ba, 2 tháng 4, 2013
GOLD Chart Update

- GOLD Daily chart moving towards the daily cloud and Falling resistance line.
- 4 Hour chart is testing its recent swing High. Breakout above this level should lead to the resistance levels shown in daily time frame. For a bigger up move price must sustain above the daily cloud and falling resistance line.
Hơn 170 triệu USD đổ vào TTCK Việt Nam 3 tháng đầu năm
Số liệu của Thomson Reuters cho thấy tổng lượng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào thị trường chứng khoán Việt Nam trong quý 1/2013 đạt 173 triệu USD, bỏ xa mức 151 triệu USD trong cả năm 2012.
Riêng trong tháng 3 vừa qua, nhà đầu tư nước ngoài
(NĐTNN) đã rót thêm tổng cộng 56 triệu USD vào TTCK Việt Nam, dù chưa
bằng một nửa mức 121 triệu USD trong tháng 1 nhưng lại ghi nhận sự cải
thiện đáng kể so với mức rút ròng 5 triệu USD trong tháng 2.
Theo số liệu của Thomson Reuters và các sàn giao dịch
Đông Nam Á, TTCK Malaysia tiếp tục dẫn đầu khu vực về lượng vốn ròng thu
hút được trong tháng 3 với 1.49 tỷ USD, cao hơn gấp đôi so với mức 585
triệu USD trong tháng 2.
Tuy nhiên, chỉ số chứng khoán chính của nước này, FTSE
Bursa Malaysia KLCI Index, lại giảm khoảng 1% trong quý 1/2013 và là chỉ
số giảm điểm mạnh nhất Đông Nam Á. Các rủi ro liên quan đến cuộc tổng
tuyển cử tiếp tục tác động đến tâm lý thị trường và nhà đầu tư nội địa.
Trong khi đó, lượng mua ròng của NĐTNN tại TTCK
Indonesia trong tháng 3 giảm xuống còn 188 triệu USD, mức thấp nhất kể
từ tháng 12/2012. Được biết vào thời điểm đó, TTCK Indonesia chỉ thu hút
được 13 triệu USD.
Điều thú vị là chỉ số Jakarta Stock Exchange Composite
Index khép lại quý 1 ở mức cao kỷ lục 4,940.98 điểm nhờ lực mua mạnh của
các nhà đầu tư tổ chức vào thời điểm cuối quý, theo nhận định của một
chuyên viên giao dịch tại Jakarta.

Phước Phạm (Vietstock)
FFN
Chuyện về EPS
Cùng nhìn vào chỉ tiêu EPS để xem các doanh nghiệp đã dùng đồng vốn của cổ đông như thế nào trong năm 2012 vừa qua.
Khó chồng khó, năm 2012 tiếp tục nhấn chìm nhiều doanh
nghiệp vào cảnh tồn kho chất đống, thiếu vốn để duy trì hoạt động… khiến
cụm từ phá sản, giải thể được nhắc đến với cấp độ thường xuyên. Ngay cả
những doanh nghiệp trên sàn niêm yết, là tiêu biểu cho những “nhân tố
mạnh” cũng chung cảnh ngộ, mang lại mức lợi nhuận thấp cho các cổ đông.
Tỷ lệ thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS) của hầu hết doanh
nghiệp đều ở mức khiêm tốn. EPS năm 2012 bình quân toàn thị trường chỉ
đạt 1,655 đồng, tương ứng với P/E là 13.42 lần tính theo số liệu được
cập nhật đến ngày 22/03 của 698 doanh nghiệp đã công bố báo cáo tài
chính 2012.
Thống kê từ năm 2007 cho thấy, năm 2012 là năm ghi nhận
mức EPS thấp nhất. Đỉnh cao EPS là 4,261 đồng ghi nhận vào năm 2007,
cũng là năm đỉnh điểm của thị trường chứng khoán Việt Nam. Sau khủng
hoảng năm 2008, EPS bình quân toàn thị trường tăng lên lại, đạt 3,805
đồng nhưng lại trượt dài cho đến nay.
EPS bình quân toàn thị trường qua các năm (Đvt: Đồng)
|
Năm 2012, trong 17 nhóm ngành của các doanh nghiệp niêm
yết thì có 9 ngành đạt EPS cao hơn mức bình quân toàn thị trường gồm
Sản xuất Nông – Lâm – Ngư nghiệp (7,806 đồng), Dịch vụ hỗ trợ, xử lý và
tài chế rác thải (4,730 đồng), Tiện ích cộng đồng (4,018 đồng), Khai
khoáng (3,182 đồng), Dịch vụ khác (2,977 đồng), Sản xuất (2,757 đồng) và
Thương mại (2,544 đồng), Bảo hiểm (1,841 đồng), Ngân hàng (1,673 đồng).
Ngược lại, EPS của nhóm ngành Dịch vụ lưu trú và ăn uống âm 176 đồng.
Tuy ở trên mức bình quân chung, nhưng những con số này chưa phải là cao.
Trong khi đó, có tới 13 nhóm ngành có chỉ số P/E thấp
hơn mức bình quân toàn thị trường. Điều đáng nói, nhóm ngành nào có EPS
cao thì chỉ số P/E càng thấp và ngược lại. Điển hình như nhóm ngành Sản
xuất Nông – Lâm – Ngư nghiệp EPS 7,806 đồng nhưng P/E chỉ ở mức 4.31
lần, Xây dựng và Bất động sản EPS chỉ 451 đồng, trong khi P/E là 36.83
lần chứng tỏ sự kỳ vọng của nhà đầu tư với lĩnh vực bất động sản còn rất
cao.
Chỉ số tài chính ngành năm 2012

EPS âm: Khó chồng khó
Có tới 129 doanh nghiệp trên sàn có chỉ số EPS âm trong năm 2012. Trong đó nổi bật là SD8 (-12,253 đồng), SDJ (-12,086 đồng), BHV (-10,674 đồng) và LAF (-10,332 đồng).
Top 10 DN có EPS năm 2012 thấp nhất
![]() |
Đáng chú ý, top 10 mã cổ phiếu có EPS thấp nhất lại có tới 4 doanh nghiệp thuộc họ hàng nhà nước Vinaconex và Sông Đà là PXM, PSG, SD8 và SDJ. Trong đó, hoạt động kinh doanh của VCH và SD8 đã âm cả vốn chủ sở hữu.
Với mức lỗ hai năm liên tiếp (2011 và 2012), tính đến
31/12/2012, VCH đã ghi nhận lỗ lũy kế 69.7 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu âm
25.5 tỷ đồng. Khó chồng khó, VCH đứng trước nguy cơ bị hủy niêm yết bắt
buộc. Phải chăng với tình hình khó khăn này mà ngày 22/03, HĐQT VCH phải
chọn con đường bán tài sản bằng cách xin ý kiến cổ đông về việc chuyển
nhượng quyền khai thác khoáng sản và dây chuyền nghiền sàng đá có công
suất 250 tấn/ngày tại mỏ đá Gò Chói. Tuy nhiên, vấn đề này đã không được
cổ đông thông qua.
Thêm vào đó, Vinaconex E&C, đơn vị nắm 49.5% vốn
của VCH đã tiến hành thoái toàn bộ vốn tại đơn vị này. Dù việc thoái vốn
không thành công do mức giá không như kỳ vọng nhưng chắc gì Vinaconex
E&C không tiếp tục việc rút khỏi doanh nghiệp đang bê bết này.
Ngoài ra, trong danh sách “đen” này còn có THV và LAF được nhắc đến nhiều trong thời gian qua với hoạt động kinh doanh ngày càng bết bát.
9 con số ngất ngưởng
Ở phía đối lập, 80 doanh nghiệp niêm yết để lại những
con số đẹp trong báo cáo tài chính 2012 với EPS trên 5,000 đồng. Và đặc
biệt có 9 doanh nghiệp ghi nhận EPS trên 10,000 đồng.
9 DN có EPS năm 2012 trên 10,000 đồng
![]() |
Đáng điểm mặt là “nhà giàu” HGM,
chỉ số EPS cao ngất ngưởng tới mức 22,405 đồng. Với mức lợi nhuận sau
thuế 138 tỷ đồng, công ty này hào phóng chia cổ tức tới 100% bằng tiền
mặt. Thêm nữa, HGM cũng là doanh nghiệp không vay nợ. Đây là những con
số đáng mơ ước của bao nhiêu doanh nghiệp cũng như cổ đông trong thời
buổi khó khăn này.
Lọt vào top này còn có đại gia VNM với lợi nhuận sau thuế tới 5,819 tỷ đồng, tương ứng với EPS 10,471 đồng. Bên cạnh đó, TCT (16,723 đồng), QTC (12,647 đồng), DPR (12,552 đồng) cũng là những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả với đồng vốn của cổ đông.
Thanh Nụ (Vietstock)
ffn
Thứ Năm, 11 tháng 10, 2012
GOLD Support and Resistance
- Weekly chart shows bulls struggling to cross 1800 levels. Bulls need a weekly close above this level for a bigger breakout.
- For bears a close below 20 SMA would hint weakness. Daily close below 1755 should start a bigger correction
Elliott Wave Update ~ 10 October 2012
S&P 500 Analysis after closing bell
- SPX 4 Hour chart shows price Near support zone of 1426 - 1430
- Daily chart shows price approaching the up trend line
- Price is also falling towards the support zone of daily chart which is between 1422 - 1426. So this zone of 1422 - 1430 may act as strong support for bulls of SPX.
Wednesday, October 10, 2012
We've laid out the larger counts. DJIA would probably count best as
a double primary zigzag. Triple negative weekly divergence shows loss of
momentum:
We still like the wedge count also as shown on the SPX below. If this is a bearish rising wedge, a collapse in prices should occur. That is the outcome of ending diagonal triangles.
Local candle action shows prices again trying to hold 1430 support and now well below the upper wedgeline again. Yet we still need a solid "lower low" to make the bear case stand out.
One can argue that wave 5 was truncated in a very sneaky expanding diagonal triangle. If this is true, it displays weakness in the wave pattern. Hence the fairly quick and steady drop in prices so far from the recent 1370 high.
We still like the wedge count also as shown on the SPX below. If this is a bearish rising wedge, a collapse in prices should occur. That is the outcome of ending diagonal triangles.
Local candle action shows prices again trying to hold 1430 support and now well below the upper wedgeline again. Yet we still need a solid "lower low" to make the bear case stand out.
One can argue that wave 5 was truncated in a very sneaky expanding diagonal triangle. If this is true, it displays weakness in the wave pattern. Hence the fairly quick and steady drop in prices so far from the recent 1370 high.
The ending diagonal expanding triangle would count as this:
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)