Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2013

SP 500 - Elliott Wave Update ~ 19 April 2013

Its a matter of support, resistance, channeling, possible backtesting, gaps up and/or down that'll help determine the wave structure in the next couple of days.  Monday should add a lot to the current squiggle structure.

First things first, we are assuming the 1597 SPX high was the cycle wave b "top".  Therefore if this is true then we are looking at counting impulse structures to the downside to begin the count on 5 Primary sized cycle "c" waves. That's the beauty of EW count logic.  If these are "corrective waves" since the top, then simply put, there will be a new top in the future at some point. Hurray! We got the bull count covered huh?

But we do seem to be impulsing nicely from our recent top so my count will be skewed toward making sense of it.

SQUIGGLES
The market ended today at the top of the "base" channel today. If the market can gap up over that come next week, then we are looking at a likely Minute [ii] wave. A gap up can cause the market to easily run to next resistance area of 1570-1573.  If that happened we are definitely labeling this as Minute [ii] bounce due to its size and relationship to the previous decline.
Therefore a pop up will likely at least backtest the broken up channel line and also form a nice Head and Shoulders topping pattern.
If Monday obeys the base channel and does yet another gap down, then we could be looking at a [i] - [ii], (i) - (ii) sequence and a break under the base channel and horizontal support at approximately 1538-1539 SPX causing panic and a wave (iii) of [iii] (otherwise known as the "third of a third" wave).  
OUTLOOK:
In this case since e-mini futures are also up against its downtrend line, Sunday night's future movement should perhaps give us an indication.  Either way the basic premise is this: In a bear market cycle wave "c" all rallies are to be sold into.  This was the way the 2007 - 2009 decline progressed.  
I will say this:. Via Sentiment Trader, all of their "intraday" oscillators and sentiment indicators are in or near "overbought" territory, not oversold. This includes their STEM MR and NASDAQ models, cumulative tick,     price oscillators, TRIN, UP volume and Up issues ratios, VIX and VXN strength. However CPCE amd ISE  put/call are not overbought so for that reason alone may cause a Monday "pop" upwards. But for the most part this is how a "sideways" movement can work off deeper oversold conditions while maintaining price and "setup" the market for a ripe decline.  So a somewhat ideal setup for a sharp - and surprising swift - decline is at least in place right now.
We'll see, things are getting interesting.

GOLD Chart update

 

  • Gold 4 Hour chart shows price getting resisted at 38.2% Fib level.
  • 4 Hour chart also shows a bearish consolidation pattern

Các cột mốc khó quên của giá vàng trong 3 thập niên

Giá vàng giao ngay lao dốc mạnh nhất kể từ năm 1983 trong phiên giao dịch ngày 15/04 và lún sâu vào thị trường “con gấu” với tổng mức sụt giảm khoảng 30% so với kỷ lục xác lập tháng 9/2011. Bloomberg đã điểm lại hành trình của giá vàng kể từ năm 1980 đến phiên giao dịch 15/04/2013 – ngày giá vàng bốc hơi 9.1%.

 
Năm 1980: Vàng đạt kỷ lục tại thời điểm đó là 850 USD/oz.
Tháng 5/1999: Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) tuyên bố bán vàng dự trữ thông qua 5 cuộc đấu giá.
Tháng 8/1999: Vàng lao dốc xuống tới 251.95 USD/oz.
Tháng 9/1999: Hiệp định vàng giữa các ngân hàng trung ương (CBGA) đầu tiên được công bố với việc 15 NHTW trong đó có NHTW châu Âu (ECB) đồng ý giới hạn tổng lượng vàng bán ra ở mức 2,000 tấn trong vòng 5 năm kết thúc năm 2004.
Năm 2003: Quỹ hoán đổi danh mục vàng (ETF vàng) đầu tiên được thành lập.
Tháng 3/2004: Hiệp định vàng giữa các ngân hàng trung ương (CBGA) thứ hai hạn chế tổng lượng vàng bán ra của các ngân hàng trung ương châu Âu ở mức 2,500 tấn đến năm 2009.
Tháng 11/2004: SPDR Gold Trust, quỹ ETF vàng lớn nhất thế giới, được thành lập.
Năm 2005: Vàng vượt 500 USD/oz.
Năm 2006: Vàng vượt 700 USD/oz.
Tháng 3/2008: Lần đầu tiên vàng đạt 1,000 USD/oz.
Tháng 9/2008: Lehman Brothers Holdings Inc. sụp đổ.
Tháng 10/2008: Vàng rớt xuống mức thấp nhất trong một năm tại 682 USD/oz. Nhà đầu tư bán vàng để nắm giữ tiền mặt khi cổ phiếu và các hàng hóa khác sụt giảm mạnh.
Tháng 11/2008: Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cam kết mua 600 tỷ USD trái phiếu trong đợt nới lỏng định lượng thứ nhất (QE1).
Tháng 2/2009: Vàng leo trở lại lên mốc 1,000 USD/oz.
Tháng 3/2009: Fed cam kết mua tới 300 tỷ USD trái phiếu kho bạc trong vòng 6 tháng sau đó.
Tháng 4/2009: Trung Quốc công bố dự trữ vàng tăng 76% lên 1,054 tấn.
Tháng 9/2009: Hiệp định vàng giữa các ngân hàng trung ương (CBGA) thứ 3 hạn chế tổng lượng vàng bán ra của các ngân hàng trung ương châu Âu ở mức 400 tấn/năm cho tới năm 2014.
Tháng 9/2009: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) chấp thuận bán 403.3 tấn vàng, trong đó 200 tấn được bán cho Ấn Độ.
Tháng 12/2009: Barrick Gold Corp., công ty sản xuất vàng lớn nhất thế giới, tuyên bố chấm dứt mọi chiến lược bù đắp rủi ro đầu tư vàng (gold hedges). Giá vàng lần đầu tiên vượt ngưỡng 1,200 USD/oz.
Tháng 11/2010: Fed cam kết mua 600 tỷ USD trái phiếu kho bạc trong đợt nới lỏng định lượng thứ 2 (QE2).
Tháng 11/2010: Lần đầu tiên vàng vượt ngưỡng 1,400 USD/oz.
Tháng 3/2011: Vàng tiếp tục xác lập kỷ lục mới do khủng hoảng nợ châu Âu, mùa xuân Ả-rập và Trung Đông.
Tháng 9/2012: Fed tuyên bố áp dụng chương trình QE mở với việc mua vào trái phiếu kho bạc và chứng khoán thế chấp ở mức 40 tỷ USD/tháng.
Tháng 10/2012: Vàng tăng lên mức đỉnh 2012 gần 1,800 USD/oz.
Tháng 12/2012: Theo số liệu của Bloomberg, tổng giá trị các sản phẩm hoán đổi danh mục vàng (ETP) đạt 2,632.5 tấn trước khi bắt đầu sụt giảm.
Tháng 12/2012: Fed gia tăng quy mô gói QE mở lên 85 tỷ USD/tháng. Các nhà lập pháp tranh luận dữ dội về “vực thẳm tài khóa”.
Tháng 1/2013: Vàng leo lên mức đỉnh của năm 2013 gần 1,700 USD/oz.
Tháng 2/2013: Vàng rớt mốc 1,600 USD/oz lần đầu tiên trong 6 tháng. Biên bản họp của Fed cho thấy một số thành viên muốn thay đổi tốc độ mua tài sản.
Ngày 12/04/2013: Vàng hạ sâu 5% và rơi vào thị trường giá xuống (thị trường con gấu) khi giá kim loại quý này đã lao dốc hơn 20% so với mức đóng cửa cao kỷ lục 1,900.23 USD/oz vào tháng 9/2011. Cộng hòa Síp có thể bán vàng dự trữ để đóng góp cho gói giải cứu, làm dấy lên nghi ngờ rằng các ngân hàng trung ương khác cũng có thể bán vàng.
Ngày 15/04/2013: Vàng rơi tự do 9.1%, mức sụt giảm mạnh nhất kể từ năm 1983.
Phước Phạm (Vietstock)
FFN

Vàng giảm sâu 7%, bạc chìm 13% trong tuần điều chỉnh lịch sử

Barclays tiếp tục hạ dự báo giá vàng bình quân năm 2013 và 2014

Hai phiên hồi sinh liên tiếp của giá vàng đã không thể cứu vãn nổi đà rơi tự do trong các phiên đầu tuần mà chỉ có tác dụng rút ngắn đà lao dốc của kim loại quý trong 5 phiên vừa qua xuống 7%.

 
Giá vàng giao tháng 6 trên bộ phận Comex của sàn Nymex tăng 3.10 USD/oz (tương ứng 0.2%) lên 1,395.60 USD/oz. Có thời điểm, giá vàng lên tới 1,424.70 USD/oz.
So với mức đóng cửa 1,501.40 USD/oz hôm thứ Sáu tuần trước, giá vàng mất tổng cộng 105.80 USD/oz, tương ứng 7% và đánh dấu tuần giảm giá thứ tư liên tiếp. Số liệu của Tổ chức nghiên cứu FactSet cho thấy, xét về giá trị phần trăm, đây là tuần giảm giá mạnh nhất của kim loại quý kể từ tuần kết thúc ngày 23/09/2011. Dù vậy, giá xàng đã nỗ lực phục hồi từ mức thấp 1,361.10 USD/oz xác lập hôm thứ Hai sau đà sụt giảm hơn 9%.
Giá vàng giao ngay tăng 0.5% lên 1,398 USD/oz. Kim loại quý chạm đáy 2 năm tại 1,321.35 USD/oz vào ngày thứ Ba và hướng đến tuần trượt sâu tổng cộng 5.1%.
Trong ngày, Barclays hạ dự báo giá vàng bình quân năm 2013 xuống 1,483 USD/oz và năm 2014 xuống 1,450 USD/oz. Theo Dow Jones, trong tháng 3, Barclays cũng đã cắt giảm triển vọng giá vàng trong năm nay bớt 7.4% xuống 1,646 USD/oz.
Trích dẫn số liệu từ Cơ quan sản xuất tiền xu của Mỹ (U.S. Mint), các nhà phân tích Commerzbank cho biết lượng đồng xu vàng bán ra từ đầu tháng đến nay đạt 153,000 USD/oz, mức cao nhất kể từ tháng 12/2009. Thị trường vàng sẽ tiếp tục dõi theo số liệu từ Ủy ban Giao dịch Hàng hóa Tương lai (CFTC) vào cuối ngày thứ Sáu.
Trong phiên giao dịch cùng ngày, giá bạc giao tháng 5 hạ 29 xu (tương ứng 1.2%) xuống 22.96 USD/oz, mức thấp nhất kể từ tháng 10/2010. Giá bạc bốc hơi tổng cộng 13% trong tuần giảm giá thứ 6 liên tiếp.
Đối với đồng, vấn đề nhu cầu vẫn là một mối lo lắng lớn của các chuyên viên giao dịch. Giá đồng giao tháng 5, hợp đồng được giao dịch sôi động nhất hiện nay, giảm 6 xu (tương ứng 1.8%) xuống 3.15 USD/lb trong ngày thứ Sáu, thấp hơn 6% so với mức đóng cửa cuối tuần trước.
Giá đồng giao tháng 4 cũng giảm 1.7%, tương ứng 5.3 xu xuống 3.15 USD/lb. Wall Street Journal cho biết, hiện hợp đồng này đã giảm hơn 20% so với mức cao 3.98 USD/lb xác lập tháng 2/2012, khiến kim loại này rơi vào thị trường giá giảm.
Giá bạch kim giao tháng 7 cũng giảm 5.1 USD/oz (tương ứng 0.4%) xuống 1,429 USD/oz. Tính cả tuần, bạch kim mất tổng cộng 4.8%. Trong khi đó, giá palađi giao tháng 6 tăng 7.25 USD/oz (tương ứng 1.1%) lên 677.05 USD/oz trong phiên giao dịch cùng ngày nhưng nhiên liệu này giảm 4.5%/tuần.
Phước Phạm (Vietstock)
FFN

Thứ Năm, 18 tháng 4, 2013

HNX, VNINDEX ranh giới Dn






KL: Nhiều khả năng HNX về 54-56, VNINDEX về 426-440 

LCM, LCG, MCG, PFL - có tín hiệu buy ngày 16-17/4/2013










Bảng kê lọc ngày 17/4/2013


Mã CK
Tín hiệu xảy ra
BVH
47.7    +0.2    KL:187,330
Pivot Tháng Chuẩn bị vượt xuống S1 = 1
Pivot Tuần Chuẩn bị vượt xuống S1 = 1
CCI(7) Vượt lên -100 = 2
CCI(14) < -100 = 1
CCI(21) < -100 = 1
SKD(7) < 20 = 1
SKD(14) < 20 = 1
SKD(21) < 20 = 1
William(7) < -80 = 1
William(14) < -80 = 1
William(21) < -80 = 1
MFI(7) < 20 = 1

13


MCG
3.8    +0.2    KL:433,040
Engulfing Pattern (Ngày) = 1
Dragonfly Doji Pattern (Tuần) = 1
MACD(12,26,9) Hội tụ chu kỳ tăng = 1
MACD(6,19,9) Hội tụ chu kỳ tăng = 1
CCI(7) Vượt lên -100 = 2
CCI(14) < -100 = 1
CCI(21) < -100 = 1
SKD(14) Vượt lên 20 = 2
SKD(21) Vượt lên 20 = 2
William(14) Vượt lên -80 = 2
William(21) Vượt lên -80 = 2

16
SJS
15.9    +1    KL:234,610
PSAR đảo chiều tăng = 2
VPivot Tuần ượt xuống S3 = 2
Morning Star Pattern (Tuần) = 1
RSI(14) Vượt lên 30 = 2
MACD(19,39,9) Hội tụ chu kỳ tăng = 1
CCI(21) Vượt lên -100 = 2
William(21) Vượt lên -80 = 2
MFI(7) Vượt lên 20 = 2
MFI(14) Vượt lên 20 = 2

16
DHM
12.2    -0.2    KL:320,120
Giá chuẩn bị vượt xuống dải Bollinger Dưới = 1
Pivot Tháng Chuẩn bị vượt xuống S1 = 1
RSI(7) < 30 = 1
CCI(14) < -100 = 1
CCI(21) < -100 = 1
ADX(7) DI+ Hướng lên DI- = 1
ADX(14) DI+ Hướng lên DI- = 1
ADX(21) DI+ Hướng lên DI- = 1
SKD(7) < 20 = 1
SKD(14) < 20 = 1
SKD(21) %K vượt lên %D = 2
William(7) < -80 = 1
William(14) < -80 = 1
William(21) < -80 = 1

15
LCG
5.7    +0.2    KL:1,525,640
Hammer Pattern (Tuần) = 1
MACD(12,26,9) Hội tụ chu kỳ tăng = 1
MACD(6,19,9) Hội tụ chu kỳ tăng = 1
CCI(7) Vượt lên -100 = 2
CCI(21) < -100 = 1
ADX(7) DI+ Hướng lên DI- = 1
ADX(14) DI+ Hướng lên DI- = 1
ADX(21) DI+ Hướng lên DI- = 1
SKD(14) Vượt lên 20 = 2
William(14) Vượt lên -80 = 2
MFI(7) Vượt lên 20 = 2

15
LCM
12.6    -0.1    KL:359,910
Pivot Tháng Chuẩn bị vượt xuống S2 = 1
Pivot Tuần Chuẩn bị vượt xuống S1 = 1
RSI(7) < 30 = 1
CCI(7) Vượt lên -100 = 2
CCI(14) < -100 = 1
CCI(21) < -100 = 1
ADX(7) DI+ Hướng lên DI- = 1
ADX(14) DI+ Hướng lên DI- = 1
SKD(7) < 20 = 1
SKD(14) < 20 = 1
SKD(21) < 20 = 1
William(7) < -80 = 1
William(14) < -80 = 1
William(21) < -80 = 1

15
MSN
116    +6    KL:112,830
MACD(6,19,9) Hội tụ chu kỳ tăng = 1
CCI(7) Vượt lên -100 = 2
CCI(14) < -100 = 1
CCI(21) < -100 = 1
SKD(7) Vượt lên 20 = 2
SKD(14) %K vượt lên %D = 2
SKD(21) %K vượt lên %D = 2
William(7) Vượt lên -80 = 2
William(14) Vượt lên -80 = 2

15
OGC
11.2    +0.1    KL:139,970
Pivot Tháng Chuẩn bị vượt xuống S1 = 1
Pivot Tuần Chuẩn bị vượt xuống S2 = 1
RSI(7) < 30 = 1
CCI(7) Vượt lên -100 = 2
CCI(14) < -100 = 1
CCI(21) < -100 = 1
SKD(7) < 20 = 1
SKD(14) %K vượt lên %D = 2
SKD(21) %K vượt lên %D = 2
William(7) < -80 = 1
William(14) < -80 = 1
William(21) < -80 = 1

15

Thứ Tư, 17 tháng 4, 2013

Chủ tịch Alphanam muốn rút khỏi thương trường - 5+

Không chỉ mong mỏi hủy niêm yết công ty của mình, Chủ tịch Alphanam Nguyễn Tuấn Hải chia sẻ với VnExpress nguyện vọng rút dần khỏi hoạt động kinh doanh để theo đuổi ước mơ riêng.

Việc cổ phiếu ALP của Công ty cổ phần Đầu tư Alphanam bất ngờ xin hủy niêm yết tự nguyện trên sàn chứng khoán, khiến nhiều người liên tưởng đến kết quả kinh doanh không tốt của công ty. Theo báo cáo tài chính kiểm toán, năm 2012, Alpham lỗ gần 150 tỷ đồng và lợi nhuận sau thế của cổ đông công ty mẹ đang âm khoảng 145 tỷ đồng. Hiện, cổ phiếu ALP có giá thấp nhất trong 3 tháng trở lại đây, ở mức 7.800 đồng và đang trong diện bị cảnh báo.
- Alphanam vừa có quyết định khá bất ngờ là xin hủy niêm yết tự nguyện trên sàn chứng khoán, ông có thể nói lý do?
Ông Nguyễn Tuấn Hải - Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Đầu tư Alphanam.
- Từ mấy năm nay, Alphanam cũng định hướng là chỉ chuyên hoạt động đầu tư. Trong đó, tập trung vào ba mảng bất động sản, sản xuất công nghiệp và lương thực. Công ty cũng mua lại một số công ty của nhà nước cổ phần hóa, sau đó tái cấu trúc hoạt động. Tuy nhiên, các công ty này đa số là làm ăn thua lỗ. Khi chúng tôi mua lại, càng mua nhiều, khoản lỗ phải gộp lại trong báo cáo hợp nhất của công ty mẹ càng nhiều. Như thế, bản chất không phải Alphanam thua lỗ, mà chỉ là báo cáo hợp nhất lỗ thôi.
Nhưng khi đưa ra báo cáo như vậy, cũng chưa lường trước được việc mình không kiểm soát được thông tin, gây ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Hơn nữa, trong vòng 3 đến 5 năm tới, để tái cấu trúc lại hoạt động của các công ty đã mua và cần có thời gian để đưa các công ty trở lại hoạt động hiệu quả, Alphanam cần một khoảng không gian yên tĩnh hơn để tiến hành.
Thêm vào đó, có một quyết định khác, mạnh hơn, mang ý nghĩa cá nhân và gia đình, nên tôi quyết định rời sàn chứng khoán. Về cá nhân, sau gần 30 năm kinh doanh, tôi tự cho rằng mình đã hoàn thành sứ mệnh làm doanh nhân, nên muốn được làm một việc khác mà mình yêu thích từ xưa, đó là giáo viên. Đây cũng là truyền thống gia đình, từ ông bà cha mẹ truyền lại. Và tôi cũng thấy, mình cũng có một chút năng khiếu, nên tin mình có thể làm được và muốn thử sức.
Bây giờ, tôi cho rằng đã đến thời điểm để chuyển giao công việc kinh doanh cho thế hệ lãnh đạo tiếp theo. Để có thể chuyển giao và bàn giao thành công, tôi không muốn tạo ra quá nhiều áp lực và muốn chuyển giao không công nợ, không vay vốn ngân hàng tại thời điểm chuyển giao. Việc dùng đòn bảy tài chính sẽ do thế hệ nhận chuyển giao quyết định. Khi rời sàn và chuyển thành công ty gia đình, lời lỗ bao nhiêu thì mình tự hưởng và tự chịu, không bị áp lực và bị ảnh hưởng bởi các phân tích và bình luận.
- Tâm trạng của ông lúc quyết định rời sàn khác gì so với lúc quyết định niêm yết vào năm 2007, khi thị trường chứng khoán đang thăng hoa và ALP cũng là một mã được săn lùng?
- Rời sàn cũng là việc bần cùng bất đắc dĩ. Không ai muốn niêm yết rồi xuống cả. Tâm trạng khi lên sàn trước đây thì háo hức, trong một không khí rất lạc quan và tin mình có thể làm được nhiều việc lớn. Nhưng qua hai lần khủng hoảng, từ năm 2007, 2008 và cộng với khó khăn vừa rồi, tôi cũng thấy từ ước mơ tới thực tế có quá nhiều trở ngại. Mà tính tôi không phải phải là người quá tham vọng, nên coi việc kiểm soát rủi ro là then chốt để bảo vệ được những thành quả và muốn rút lui để bảo toàn lực lượng.
Nhưng nếu nói là chán hay nản thời điểm này thì lại không phải. Đứng ở góc độ nào đó, rút lui này cũng coi như là thay đổi chiến lược hoạt động. Mình giống như cầu thủ bóng đá, đến tuổi thì về, không phải do chán nản, vẫn đầy đam mê, nhưng mà tham gia ở hình thức khác thôi, như huấn luyện viên, chứ không phải vào đá nữa.
Những người bạn bè làm ăn lớn, khi nghe tin tôi rút khỏi sàn, đều gọi điện chúc mừng. Một nhà kinh tế rất nổi tiếng đánh giá, nếu tôi mà rút được là một thành công lớn nhất đời, không nhiều người làm được. Họ hiểu, làm tôi cảm thấy rất vui. Tất nhiên, cũng có một phần thông tin sai lệch làm ảnh hưởng tới uy tín, nhưng thực tế sẽ làm cho mọi người hiểu đúng.
- Ông cảm thấy như thế nào khi cổ phiếu ALP đã chạm đáy vài phiên gần đây, còn 7.800 đồng. Các mã khác mà ông nắm như AME (Công ty cổ phần Alphanam Cơ điện), TLC ((Công ty cổ phần Viễn thông Thăng Long) cũng có giá khá thấp, lần lượt là 2.100 đồng và 1.700 đồng?
- Với tôi, cổ phiếu xuống giá thì rất tốt, vì có thể mua lại được nốt số cổ phiếu còn lại trên sàn với giá rẻ hơn. Tôi muốn đưa thành công ty gia đình, nên sẽ phải mua lại hoàn toàn số cổ phiếu còn lại. Nhưng như thế sẽ thiệt hại cho cổ đông, vì giá quá thấp. Thực ra, giá thấp thế này cũng tạo ra cơ hội cho người biết phân tích sẽ mua được giá rẻ.
Tôi ví dụ, cổ phiếu AME, định giá trên sàn là hơn là khoảng 2.000 đồng. Nếu chỉ tính riêng một bất động sản mà tôi đang cho một công ty điện máy có tiếng thuê, hàng tháng thu 10 tỷ đồng, cũng có giá trên 200 tỷ đồng rồi, cổ phiếu như thế không thể thấp hơn mức 20.000 đồng được.
Nhưng việc nhà đầu tư đánh giá là một phần của thị trường chứng khoán. Nó là một cuộc chơi, có cái được đánh giá quá cao, có cái bị đánh giá thấp.
- Ngoài việc rút niêm yết ALP, ông còn kế hoạch gì khác?
- Trong thời gian tới, tôi sẽ cố gắng giảm số công ty mình đang nắm xuống còn khoảng dưới 10 đơn vị. Và để làm được việc này, tôi sẽ rút niêm yết cả AME và TLC. Kế hoạch này đã được ĐHCĐ thông qua, và có lẽ sẽ tiến hành còn sớm hơn cả ALP. Khi rút xuống sàn, tôi sẽ dùng AME làm công ty mẹ để sáp nhập khoảng 10 công ty hoạt động trong lĩnh vực cơ điện, giao thông, xây dựng lại với nhau. Và chuyển tên công ty thành Alphanam E&C. Thực ra, về bản chất, từ 1/4, Alphanam E&C đã bắt đầu hoạt động theo sơ đồ hợp nhất này rồi. Nhưng vẫn phải chờ những thủ tục chính thức về pháp lý để thông qua. Sau đó, có thể niêm yết trở lại, tùy tình hình, và khi đó giá chắc cũng sẽ không thể dưới 10.000 đồng, và vốn điều lệ dự kiến khoảng 500 tỷ đồng.
- Sự khác biệt trong chiến lược kinh doanh và đầu tư của ông bây giờ so với lúc trước như thế nào?
- Trước đây, chiến lược kinh doanh của tôi là đầu tư tài chính để ăn theo. Và tôi đã mất tiền rất nhiều trong việc "đầu tư vào các công ty làm ăn hiệu quả" như vậy. Đó cũng là thời điểm thị trường chứng khoán lao dốc không phanh, cổ phiếu từ xuống cả chục lần. Nhưng từ 6, 7 năm nay, triết lý đầu tư của tôi đã thay đổi. Bây giờ tôi đầu tư thôn tính, mua lại trên 75% những công ty thua lỗ và chỉ mua vào mà không bán ra. Nói vui ngày xưa là mua pháo cho người khác đốt, bây giờ tôi mua pháo mình tự đốt.
Tôi thấy chiến lược này đang rất hiệu quả. Mua công ty làm ăn lỗ thì họ mất, chứ mình không mất, mà lại mua được giá rẻ. Đây không phải canh bạc cảm tính, mà hoàn toàn là lý trí, bằng nghiệp vụ phân tích chuyên nghiệp. Nói ngắn gọn, chiến lược đầu tư của Alphanam tập trung vào tài sản, còn hoạt động kinh doanh như thế nào sẽ phục hồi lại dần. Như vậy, dù công ty thế nào, chỉ cần tìm được nguồn bán tài sản là tôi lại có lãi ngay.
Ngoài ra, thời điểm này, tôi xác định, chiến lược của Alphanam là củng cố nội lực, tự thân vận động. Năm nay, tôi xây dựng kế hoạch kinh doanh của Alphanam không có biểu đồ, không có con số, chỉ có hình ảnh. Hình ảnh đó là tôi ngồi vá lưới, hội đồng quản trị, ban giám đốc, kế toán ngồi vá thuyền, toàn bộ nhân viên, lãnh đạo tranh thủ ăn cá khô, chờ sóng yên bể lặng mới tiếp tục rong buồm ra khơi.
- Chiến lược này có gì mâu thuẫn với quyết định mua lại các công ty mà ông đang nhắm tới?
- Chuyện kinh doanh vẫn đang tiếp diễn. Tôi cho rằng càng trong thời kỳ khủng hoảng thì cơ hội càng lớn, vấn đề là nắm bắt cơ hội như thế nào thôi. Tôi vẫn tiến hành mua lại các công ty thua lỗ, nếu thấy hợp lý. Ví dụ, tôi đang đàm phán để mua lại 75% vốn một nhà máy cồn Ethanol ở Quảng Nam. Nhà máy này kinh doanh thua lỗ khoảng 400 tỷ đồng và khoản nợ phải trả hơn 700 tỷ đồng nữa. Nếu thương vụ mua bán này thành công thì số lỗ hợp nhất tại báo cáo tài chính sẽ gánh thêm gần 300 tỷ đồng.
Hàn Phi
vnexpress

Hang Seng, Shang hai, VNM - ETF - 16.4.2013

Chart forHANG SENG INDEX (^HSI)

Chart forHANG SENG INDEX (^HSI)

Chart forSSE Composite Index (000001.SS)
Chart forSSE Composite Index (000001.SS)

Chart forMarket Vectors Vietnam ETF (VNM)

Chart forMarket Vectors Vietnam ETF (VNM)

SP500 - 16 4 2013

Update...
http://elliottwavesurf.blogspot.com/2013/04/sp500_7.html






SP500 - 07.04.2013

Update...
1)... http://elliottwavesurf.blogspot.com/2013/04/sp500.html
2)... http://elliottwavesurf.blogspot.com/2013/04/sp500_3.html






ALT


Thứ Ba, 16 tháng 4, 2013

SILVER Chart update - BreakDown Bearish

  • Silver weekly chart shows a bearish Descending triangle breakdown. 
  • Hope for silver bulls is the Golden ratio shown in monthly chart. If price forms a basing formation here we may see an up move,
  • Oversold up moves if happens will find it tough to cross the broken 200 Week SMA. This level shown in last chart will act as stiff resistance for now.
  • GOLD CHART UPDATE

GOLD Chart update - Dự về 1244 - 5+

GOLD Chart update

  • First chart of gold shows the target for the range brakdown
  • Second chart shows price breaking 200 Week SMA. Sustaining below it will be bad news for Gold bulls.
  • Price has broken below 38.2% Fib level, Sustaining below it may target 50% Fib level
  • GOOGLE WEEKEND UPDATE

S&P 500 đạt (5) đảo chiều - 5+

S&P 500 Analysis after closing bell

  • SPX Has fallen to the bearish part of the channel. Price yet to breakdown from the bullish structure.
  • Price breaking below the level shown in second chart may add further strength for bears of SPX.
  • Last chart shows weekly chart with up trend line and MACD bearish cross which will be confirmed on weekly closing basis.
  • GOLD RANGE BREAKDOWN TARGET

Tự doanh chứng khoán: Tự bạch của một người trong cuộc

“Sức ép của trader là rất cao, nhiều lúc không chỉ là đồng lương đồng thưởng, mà còn là cả danh dự. Trong hoạt động trading thì chiến thắng bản thân nhiều hơn là chiến thắng các đối thủ khác. Chiến thắng bản thân là kiềm chế lòng tham, chấp nhận sai lầm, giải tỏa bế tắc, chấp nhận dừng cuộc chơi khi mất phương hướng”.


Quản lý rủi ro luôn là ưu tiên hàng đầu của các tổ chức chứ không phải mục tiêu lợi nhuận.
Người đứng đầu bộ phận tự doanh giao dịch hàng ngày (hay được gọi là head trader) của một công ty chứng khoán lớn trên thị trường chia sẻ như vậy với VnEconomy chuyện bếp núc công việc với những áp lực và nguyên tắc ứng xử trên thị trường. Anh cũng xin được giấu tên và danh tính công ty.
Ứng xử nhanh theo thị trường
Tôi nghe nói làm head trader chịu nhiều áp lực lắm và tính cách của trader thường rất nóng nảy. Anh đã đập vỡ cái bàn phím máy tính nào hay chưa?
Bản thân tôi thì chưa đập cái gì cả, nhưng đúng là áp lực thì rất nhiều. Áp lực không chỉ từ đồng nghiệp, lãnh đạo công ty mà còn là áp lực từ chính bản thân mình. Đâu phải lúc nào mình cũng đúng, cũng chiến thắng được thị trường? Nhiều lúc suy nghĩ về một tình huống, một kế hoạch mà mất ngủ đến 3-4 giờ sáng là bình thường vì quyết định phải đưa ra ngay trong phiên giao dịch ngày mai. Còn chuyện miên man suy nghĩ đi lướt qua đồng nghiệp hay lãnh đạo mà quên chào là thường xuyên!
Vậy anh đã có thời điểm nào bối rối, mất phương hướng hay chưa?
Cái này là thường xuyên. Vấn đề quan trọng là trong trạng thái như vậy, anh hành động thế nào. Không ai có thể nhìn xuyên suốt được thị trường. Với tôi, nếu danh mục đang lãi thì cho phép mình do dự. Nếu danh mục bấp bênh ở ranh giới sắp lỗ mà bản thân vào trạng thái mất phương hướng thì sẽ cắt hết để đứng ngoài. Quan điểm của tôi là kiểm soát tối đa rủi ro, chấp nhận lợi nhuận vừa phải, thậm chí là thấp.
Nôm na thì tự doanh được công ty đưa cho một cục tiền và có nhiệm vụ kinh doanh kiếm lợi. Cục tiền đó được phân bổ như thế nào?
Để vận hành nguồn vốn tự doanh thì phải có quy chế hoạt động tự doanh, trong đó có quy định về phân bổ vốn, biện pháp hạn chế rủi ro, trách nhiệm, quyền hạn của mỗi thành viên trong nghiệp vụ tự doanh.
Hoạt động tự doanh thời kỳ trước thì nhiều công ty coi là mũi nhọn trong nâng cao tài sản. Nhưng về lâu dài thị trường khó khăn thì sẽ cắt giảm dần, để một tỉ lệ phân bổ vốn an toàn chứ không để toàn bộ vốn điều lệ vào tự doanh. Ngưỡng an toàn khoảng 50% so với vốn chủ sở hữu trở lại. Đây là mức phân bổ vốn an toàn giúp doanh nghiệp pháp triển hài hòa, không quá rủi ro với những biến động thị trường.
Quy chế hoạt động tự doanh của công ty cũng có quy định rất rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng cá nhân. Head trader thì được quyền quyết định vị thế bao nhiêu, ông Tổng giám đốc quyết bao nhiêu. Dĩ nhiên là phải có một hội đồng đầu tư với những quy định cụ thể, chẳng hạn đến mức đầu tư nào thì phải thông qua Chủ tịch Hội đồng Quản trị. Bản thân mỗi thành phần đều được phân theo cấp để phê duyệt hạn mức đầu tư thì cũng có những ràng buộc để tránh quyết định một cách chủ quan, duy y chí, tùy tiện.
Ngoài ra hoạt động tự doanh còn phải tuân theo các tiêu chí về lựa chọn doanh nghiệp, có hạn mức phân bổ cụ thể, thời gian nắm giữ rõ ràng. Thẩm quyền quyết về hạn mức vốn cũng phụ thuộc vào tính chất của giao dịch. Chẳng hạn là hoạt động trading hàng ngày thì head trader có quyền quyết một mức nhất định, phụ thuộc vào tính thanh khoản, chỉ số cơ bản của doanh nghiệp đó…
Mức phân bổ vốn của anh với vai trò một head trader trong hoạt động trading hàng ngày là bao nhiêu?
Tôi được quyền quyết đối với các vị thế tối đa là 10 tỷ đồng.
Vậy các trader dưới quyền anh thì được phân bổ nguồn vốn cụ thể bao nhiêu cho hoạt động trading hàng ngày?
Thực ra năm nay công ty tôi phân bổ nguồn vốn không nhiều cho hoạt động trading nên các trader không có quyền ứng xử trực tiếp trên thị trường.
Vậy trong trường hợp nhận thấy cơ hội lớn và an toàn, liệu head trader có quyền vượt hạn mức hay không?
Hạn mức này cũng là một ranh giới mềm vì tính ứng xử nhanh theo thị trường. Trong một vài trường hợp vị thế có thể tăng lên 20-30 tỷ đồng ngay tức khắc nhưng phải thông báo cho hội đồng đầu tư đồng thời tuân theo danh mục và phương án đã có sẵn, và không được vượt quá quy mô tổng nguồn vốn lên kế hoạch từ đầu. Trường hợp phát sinh như vậy chỉ cần gửi e-mail thông báo để “vote” ngay trong phiên là hạn mức của tôi có được nâng lên hay không. Điều này phải có kế hoạch ứng xử từ trước để tất cả các thành viên tập trung xử lý trường hợp phát sinh này bên cạnh những công việc thường ngày.
Các thành viên hội đồng đầu tư có thể san xẻ cho nhau. Chẳng hạn anh Tổng giám đốc được cấp hạn mức cao gấp đôi tôi. Khi hàng ngày đã theo dõi danh mục vận hành, cách ứng xử với thị trường của tôi thì có thể đánh giá tôi có tỉnh táo trong những trường hợp như vậy không.
Ở đây có sự trơn chu trong quá trình vận hành hệ thống, sự tin cậy cũng như tính nhạy bén của người lãnh đạo. Đôi khi người lãnh đạo phải biết được các trader của mình có bối rối, lúng túng và bị sức ép của chính thị trường cũng như đồng nghiệp. Chẳng hạn trạng thái khi thị trường tăng, vị thế không đem lại lợi nhuận, trader giữ vị thế đó sẽ bị sức ép và bị rối, có thể dẫn đến những quyết định mất phương hướng. Sự chia sẻ của lãnh đạo lúc đó là rất quan trọng, có thể chấp nhận dừng cuộc chơi hoặc có phương án xử lý khác tốt hơn với quan điểm là không để mất tiền. Bản thân tôi cũng làm như vậy với các trader dưới quyền.
Kế hoạch luôn phải lên trước từ đầu phiên
Quy trình cụ thể đối với việc lựa chọn danh mục trading của công ty như thế nào?
Hoạt động trading không thể gò bó các quy trình “thưa bẩm” quá dài. Tín hiệu thị trường là rất nhanh và trading là phải theo thị trường. Nếu cứ phải làm kế hoạch, trình các cấp phê duyệt, triệu tập hội đồng đầu tư thì không kịp. Hội đồng đầu tư sẽ xét duyệt danh mục tiềm năng cho hoạt động trading từ đầu quý hoặc đầu năm. Thực ra việc lên danh mục trading cũng tạo khoảng rộng đủ để có các quyết định linh hoạt.
Danh mục này đã được phân tích bài bản, lên các phương án cụ thể, lấy ý kiến các thành phiên hội đồng đầu tư. Bộ phân phân tích sẽ đưa ra ý kiến độc lập đối với các phương án của ban đầu tư.
Các khâu cụ thể để lên một danh mục đầu tư cuối cùng là: đề xuất phương án, thẩm định và cuối cùng là phê duyệt. Tất cả các bộ phận đều có thể đề xuất phương án và mỗi bộ phận tự phân tích phương án của mình. Sau đó chắt lọc ra một phương án tối ưu. Khi đó bộ phận phân tích bắt đầu soi vào và có ý kiến độc lập, phân tích lại để xây dựng danh mục cuối cùng. Danh mục này phải đưa ra bảo vệ trước hội đồng đầu tư.
Vậy có khi nào xuất hiện mâu thuẫn giữa tính cơ bản với tính thị trường của các cổ phiếu trong danh mục không?
Các mâu thuẫn đó phải được xem xét kỹ lưỡng. Một cổ phiếu tốt về mặt cơ bản nhưng có thể không tốt về mặt thị trường như thanh khoản thấp. Bộ phận phân tích và bộ phận tự doanh có thể thảo luận với nhau và ưu tiên hơn thuộc về tự doanh vì họ sẽ là người trực tiếp tham gia thị trường tại những cổ phiếu đó. Có những cách để hài hòa mâu thuẫn. Chẳng hạn cổ phiếu tốt, thanh khoản kém thì có thể giảm tỉ trọng phân bổ vốn xuống.
Trong công ty chỉ có head trader được phân hạn mức, vậy mối quan hệ cụ thể giữa head trader với các trader dưới quyền như thế nào?
Các bạn trader sẽ lên các kế hoạch, phương án, danh mục, làm tổng kết hàng ngày và gửi lên cho tôi. Ví dụ danh mục có 5 mã, các bạn sẽ đóng góp ý kiến, nên chủ đạo ở mã nào, chiến lược trading cụ thể và cùng bàn bạc. Khi đó head trader nhận thấy trader nào có phương án tối ưu thì sẽ được phân công trực tiếp xử lý trong ngày. Vai trò chính của head trader là định hướng, lựa chọn người phù hợp, chiến lược phù hợp và phân giao công việc, kiểm soát hoạt động theo chiến lược đã định.
Việc kiểm soát các vị thế, cân bằng danh mục diễn ra hàng ngày?
Tôi yêu cầu các trader phải cập nhật vị thế ngay trong phiên. Thậm chí khớp lệnh đến đâu phải báo cáo đến đó để tôi cân bằng được giá trị danh mục tổng thể. Khi một trader đã tập trung tối đa vào công việc của mình, họ đâu có hình dung được các mã khác biến động thế nào và tổng thể danh mục trading của bộ phận như thế nào?
Đôi lúc người head trader cũng phải can thiệp vào công việc cụ thể. Nhiều trường hợp các trader cũng lúng túng, mất phương hướng. Chẳng hạn, kế hoạch ban đầu là nếu phiên hôm nay có một cú hồi, chúng ta sẽ bán ra ở khoảng mức bao nhiêu, khối lượng nào. Nhưng đôi khi giá hồi quá mạnh và trader lại có tâm lý chờ thêm nữa, tức là chấp nhận rủi ro cao hơn. Khi đó head trader là người chịu trách nhiệm chính phải ra quyết định, tạo yếu tố tâm lý để các trader quả quyết hơn.
Vậy trong hoạt động trading thực tế, việc kiểm soát phân bổ vốn cho từng cổ phiếu cụ thể như thế nào?
Kế hoạch luôn phải lên trước từ đầu phiên và các giao dịch cơ bản tuân thủ kế hoạch này. Kế hoạch đã dự kiến khoảng giá cụ thể, cách ứng xử mua bán cụ thể. Tuy nhiên vẫn có những lúc phải phản ứng nhanh. Chẳng hạn ban đầu dự kiến thoát danh mục 30 tỷ đồng trong vài phiên, nhưng đột biến thị trường có thể quyết thoát toàn bộ ngay trong một phiên.
Việc phân chia trách nhiệm trong hoạt động trading của bộ phận như thế nào?
Head trader chịu hoàn toàn trách nhiệm cho các giao dịch.
Như thế các giao dịch thua lỗ ở từng cổ phiếu cụ thể do các trader cụ thể phụ trách cũng chỉ người đứng đầu chịu?
Việc phân quyền rất rõ ràng. Các trader không được phân bổ vốn thì cũng không phải chịu tránh nhiệm về rủi ro. Quan hệ quyền lợi/rủi ro phải rõ ràng. Quyền càng cao thì trách nhiệm càng lớn. Chẳng hạn nếu tôi vượt hạn mức thì những người đồng ý cũng phải chịu trách nhiệm cùng.
Công ty có cơ chế nào để tăng hạn mức phân bổ vốn cho hoạt động trading hay không, chẳng hạn tăng theo tỉ lệ lợi nhuận kiếm được?
Kế hoạch phân bổ vốn đã được hoạch định từ đầu năm và do hội đồng đầu tư quyết định, chẳng hạn bao nhiêu phần trăm của vốn chủ sở hữu sẽ được dùng trong năm nay. Kế hoạch này khá dài hơi và con số cũng cố định trong một thời gian. Chẳng hạn năm nay kế hoạch chúng tôi tham gia thị trường 150 tỷ đồng thì thẩm quyền của tôi cũng tương xứng với một tỉ lệ nào đó. Ngoài cái khung chiến lược của hội đồng đầu tư thì bộ phận trading cũng đề xuất chiến lược và tỉ trọng hạn mức đầu tư. Chẳng hạn trong 100 tỷ thì hạn mức cho trading khoảng 30 tỷ, nếu là 150 tỷ thì khoảng 50 tỷ.
Công ty có cơ chế khuyến khích nào cho các trader không?
Đương nhiên là có phần bonus (phần thưởng - PV) tính trên phần lợi nhuận ròng kiếm được. Chúng tôi có phân định rõ ở mức lợi nhuận kiếm được thế này thì thưởng bao nhiêu, phân bổ về từng trader bao nhiêu. Cơ chế như vậy đương nhiên phải có.
Vậy con số cụ thể là bao nhiêu?
Trong khoảng 10-15% phần lợi nhuận ròng kiếm được tính theo năm và trên cơ sở giá trị đã chốt (đã bán) chứ không phải giá trị danh mục. Lợi nhuận trading ở đây là lợi nhuận ròng sau khi đã trừ đi tất cả các chi phí vốn. Ví dụ trading 10 tỷ, lời 5 tỷ thì phải tính cả lãi suất huy động vốn cũng như các chi phí khác liên quan đến hoạt động.
Anh đánh giá thế nào về mức thưởng như vậy?
Tôi nghĩ tỉ lệ như vậy là hài hòa. Cũng có người nghĩ là thấp quá, cũng có người nghĩ là hơi cao. Đối với người nghĩ thấp thì họ chưa nghĩ đến trường hợp nếu rủi ro xảy ra. Bản thân các trader không có ai bỏ tiền ra để bù thua lỗ cả. Nếu anh làm một việc không phải gánh chịu rủi ro thì làm sao anh đòi hỏi một con số lợi nhuận cao được? Tôi nghĩ mức 10-15% là con số hấp dẫn rồi. Nếu trading với một số tiền lớn và hiệu quả tốt thì khoản thưởng cũng không phải là nhỏ.
Quy trình quản lý rủi ro trong bộ phận trading của anh là như thế nào?
Có nhiều tiêu chí để hạn chế rủi ro. Chẳng hạn khi quyết định trading một cổ phiếu thì không được vượt quá khối lượng giao dịch bình quân của cổ phiếu đó trong một khoảng thời gian nhất định. Đó cũng là cơ sở để phân bổ vốn cho hợp lý. Còn về danh mục thì phải bảo vệ được về các yếu tố cơ bản từ đầu năm và được cập nhật theo quý như kết quả kinh doanh, chứ không phải cứ ngẫu hứng nhảy bổ vào mua một cổ phiếu. Khi phân tích cơ bản thì đã có sự đóng góp ý kiến của nhiều bộ phận, thậm chí cả tiếp xúc trực tiếp với doanh nghiệp. Ngay cả hoạt động trading đặt lệnh cũng có phần mềm cảnh báo, chẳng hạn vượt quá giá trị nhất định là cảnh báo head trader ngay lập tức.
Đôi khi hoang mang như ở ngã ba đường
Về rủi ro thị trường thì sao?
Kế hoạch trading hàng ngày đã dự kiến các tình huống và có họp bàn trước. Ngưỡng cắt lỗ hiện tại là 8%. Mức này thuộc thẩm quyền của head trader. Mức này là tiêu chuẩn cho từng mã. Những trường hợp mà không thể cắt được như mất thanh khoản thì mức lỗ vượt 15% phải triệu tập hội đồng đầu tư. Thực tế thì mức lỗ 15% là thị trường đã diễn biến rất nhanh và mạnh, đòi hỏi bộ máy phải rất gắn kết và chia sẻ với bộ phận trading.
Vậy đâu là những tín hiệu rủi ro đầu tiên anh nhìn vào khi quản lý một danh mục trading hàng ngày?
Quan sát đầu tiên là xu hướng thị trường. Vận động của thị trường là trọng yếu. Khi xu thế đã mạnh thì rất ít cổ phiếu đi ngược lại. Cảnh báo thứ hai là các thông tin về doanh nghiệp. Tiếp nữa là các thông tin có thể gây sốc, chẳng hạn vụ bắt bớ vừa rồi. Một trader chỉ cảm nhận ảnh hưởng của thông tin từ yếu tố thị trường, như lượng bán lớn, giá sụt mạnh, tức là cảm nhận chỉ về phân tích kỹ thuật và giao dịch. Head trader phải có tầm nhìn bao quát hơn, đánh giá thông tin rộng hơn để quyết định, chẳng hạn thoát toàn bộ danh mục ngay lập tức.
Bộ phận trading có khi nào xung đột quan điểm với nhau hay không và cách xử lý như thế nào?
Đó là điều đương nhiên và tôi rất khuyến khích. Điều này giúp mọi người không tự tin thái quá, phải luôn vận động suy nghĩ thấu đáo vấn đề. Ngược lại, điều này đôi khi cũng khiến các trader rơi vào trạng thái hoang mang như đứng ở ngã ba đường.
Vai trò lúc đó thuộc về head trader. Lúc tranh luận thì các trader có vẻ căng thẳng nhất, nhưng thực ra head trader mới là người căng thẳng vì về nhà là các bạn đó không còn trách nhiệm gì nhưng tôi có thể mất ngủ để chọn một phương án hợp lý.
Trước khi làm head trader cho một tổ chức anh cũng đã từng đầu tư cá nhân. Vậy sự khác biệt lớn nhất là gì?
Đầu tư cá nhân ban đầu đương nhiên là lúc mới vào nghề đều manh mún, chưa có các khái niệm cơ bản như quản lý rủi ro. Thực ra trong đầu tư thì kinh nghiệm là quan trọng nhất. Khi mới vào nghề thì dễ tìm được một phương pháp hay hệ thống trading rất hiệu quả. Nhưng càng lâu sẽ càng nhận thấy hệ thống đó chỉ hiệu quả trong một giai đoạn thời gian nhất định, với một số cổ phiếu nhất định. Khi mở rộng hệ thống ra sẽ gặp rất nhiều sai lầm.
Khó khăn nhất là xử lý những mâu thuẫn trong chính hệ thống trading của mình, đến mức có thể thành “loạn chưởng”, rất ức chế. Thông thường khi đó người thiếu kinh nghiệm sẽ lấy cái sai lớn để sửa cái sai nhỏ, đi đến hết sai lầm này đến sai lầm khác.
Khi làm việc cho tổ chức, điều may mắn là có không gian riêng, không bị áp lực quá lớn. Những lúc tôi cảm thấy khó khăn đưa nhận định về thị trường thì tôi đứng ngoài, không tham gia. Nếu cứ cố gắng đưa ra một quyết định hay gượng ép phải tham gia thị trường vì một áp lực nào đó thì rất dễ dắt tay nhau “xuống núi” luôn.
Anh có nói đến sự khác biệt trong quản lý rủi ro giữa đầu tư cá nhân với làm việc cho tổ chức. Cụ thể là gì?
Đương nhiên là ở tầm tổ chức thì quy trình, quy chế là rõ ràng, khác biệt. Khi đầu tư với nguồn tiền của mình thì tâm lý chấp nhận rủi ro thường cao hơn. Khi sử dụng nguồn vốn của tổ chức thì phải tuân thủ những quy định nghiêm ngặt.
Vậy cảm nhận của anh thế nào khi những nhà đầu tư cá nhân ngoài kia kiếm lời cả 100% trong khi con số báo cáo của anh chỉ 20-25%?
Tôi cũng biết có những người nhân được 3 lần tài khoản còn tôi chỉ kiếm được có 3%. Tôi vẫn cảm thấy bình thường. Đó là cuộc chơi mà họ thắng, họ giỏi hơn mình. Nhưng trong đầu tư chứng khoán không ai nói tài được. Anh có thể giỏi ở chặng này nhưng lại thất bại ở chặng khác. Người kiếm được 300% có thể sẽ mất 300% ở lúc khác. Người chỉ kiếm được 3% lại chỉ mất đi 3% mà thôi.
Có vẻ như vấn đề nằm ở kỷ luật chấp nhận rủi ro/lợi nhuận?
Quá trình đầu tư là một chặng đường rất dài. Giá trị cần so sánh không phải là trong một phi vụ đầu tư nào đó. Mức độ chấp nhận rủi ro và lợi nhuận bao nhiêu là hợp lý là một lựa chọn không dễ dàng. Chẳng hạn với một thị trường đầu cơ, giá sẽ tăng đến một mức mà tôi thấy đủ, quá nữa thì không tốt và tôi thoát ra. Nhưng vì tính đầu cơ nên giá vẫn tăng tiếp, người giỏi có thể kiếm lời nhiều hơn, nhưng tôi chấp nhận đứng ngoài, hài lòng với những gì mình kiếm được và không còn rủi ro.
Với một khoản đầu tư cụ thể, mức lãi bao nhiêu là anh hài lòng?
20%. Trong khoảng 20-25% là tôi xác định “out”! Nói gì thì nói, có một đồng tiền thực đút vào túi mình tức là còn dư địa cho các hoạt động tiếp theo.
Anh suy nghĩ gì giữa việc anh chấp nhận rủi ro 8% để lãi 20% so với việc chấp nhận rủi ro 50% để lãi 100%?
Đây là mức độ chấp nhận rủi ro của từng người. Như tôi nói lúc đầu, nhà đầu tư dùng tiền của mình thường có xu hướng chấp nhận rủi ro cao, trong khi người dùng vốn của tổ chức chọn rủi ro thấp, đề cao tính an toàn. Ngay với nhà đầu tư cá nhân, dùng margin cũng là một hình thức vốn của người khác. Thực tế đã cho thấy margin cao mà vẫn chấp nhận rủi ro cao thì rất dễ cháy tài khoản. Nếu cho tôi lựa chọn, tôi luôn chọn rủi ro 8% để lãi 20%. Tôi quan tâm nhiều hơn đến một sự bền bỉ, vững chắc trong hoạt động trading, an toàn là hàng đầu.
Mạng lưới thông tin riêng
Những kênh tin tức mà anh thường tiếp nhận là gì?
Trader nói chung cũng như head trader luôn phải nghe ngóng thông tin từ mọi nguồn có thể. Phần lớn tôi hay sử dụng kênh chat Skype, thông tin thường rất nhanh nhạy. Đây như thể là một mạng lưới thông tin vô hình mà hầu hết các trader đều có kết nối vào. Dĩ nhiên những thông tin không chính thống luôn phải kiểm tra. Chúng tôi cũng phải ngồi với nhau để đánh giá thông tin này là lộng ngôn hay sai sự thật, hay chính xác.
Kênh thông tin đó là do các trader tự tổ chức?
Không chỉ các trader mà tất cả các nhà đầu tư có mặt trên thị trường đều có thể tham gia. Họ tự thành lập hoặc gia nhập những “room chat”. Ví dụ anh mở ra một “room chat” mà tôi thấy anh nhận định thị trường sắc sảo, có nhiều ý giống tôi thì tôi xin tham gia room đó. Qua room này tôi lại thấy có thành viên khác thường xuyên có những tin rất nhạy và chính xác thì tôi lại phải tìm hiểu và kết nối, chia xẻ cũng như tiếp nhận thông tin.
Mạng lưới thông tin này không chính thống nhưng thậm chí còn nhanh nhạy và sôi động hơn nhiều. Anh có thể tưởng tượng như có hàng ngàn con mắt cùng soi vào biến động giao dịch, cùng giương ăng-ten nghe ngóng thông tin thì độ đa dạng đến mức nào.
Nguyễn Hoàng
tbktvn

Thứ Ba, 9 tháng 4, 2013

Bệnh thành tích đã thành mãn tính

Nguyên Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên nhận được sự đồng tình cao khi ông nói về bệnh thành tích...

Là một trong những diễn giả mang lại nhiều sự chú ý cho Diễn đàn kinh tế mùa xuân năm 2013, nguyên Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên nhận được sự đồng tình cao khi ông nói về bệnh thành tích.
Một hạn chế khác khiến ông Lê Đăng Doanh không khỏi thắc mắc là, mọi năm, tăng trưởng tín dụng khoảng 30%, GDP mới tăng 6%. Nay tăng trưởng tín dụng quá nhỏ chưa tới 1% mà tăng trưởng GDP hầu như không bị ảnh hưởng là bao. Cứ như thể nền kinh tế khỏe đến mức không cần cung ứng tín dụng vẫn có thể tăng trưởng! - Ảnh minh họa.
Từng nhiều lần thể hiện thái độ khá gay gắt về việc xây dựng và thực hiện các chỉ tiêu kinh tế xã hội của Chính phủ khi còn là Phó chủ tịch Quốc hội khóa XII và ngay cả bây giờ, nguyên Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên nhận định: “Bệnh thành tích mang tính phổ biến”.
Hai mươi năm có mặt ở nghị trường Quốc hội, trong đó tới nửa số thời gian “cầm trịch” phản biện các báo cáo kinh tế - xã hội của Chính phủ trình Quốc hội, nguyên Phó chủ tịch Nguyễn Đức Kiên thấy buồn phiền vì “theo cùng năm tháng, khó khăn và thách thức cứ phình to ra”.
Một kỷ niệm đáng nhớ với ông là thời điểm kinh tế năm 2007, khi các cuộc khủng hoảng tài chính và sau đó là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu xuất hiện có lẽ khá đột ngột với các nước, trong đó có nước ta. Nhưng trong báo cáo của cơ quan chức năng trình Quốc hội tại Kỳ họp cuối năm 2007 vẫn đánh giá, đại ý rằng dự tính sẽ hoàn thành và hoàn thành vượt mức toàn diện mục tiêu, chỉ tiêu Đại hội X của Đảng, một số chỉ tiêu hoàn thành sớm trước 2 năm.
Ngay cả năm 2010 khi chuẩn bị các văn kiện phục vụ Đại hội XI của Đảng, vẫn tiếp tục tuyên truyền kinh tế tăng trưởng 6,7% cao hơn mức Quốc hội đề ra 6,5%, mà không nói gì đến thực tế lạm phát ở mức 18,3%, cao hơn nhiều mức 8% nêu ra trong nghị quyết.
Nguyên Phó chủ tịch Quốc hội đúc kết: “Thực tế này cho thấy khả năng dự báo, tầm nhìn về một nền kinh tế phát triển khỏe mạnh, lâu bền rất hạn chế và bệnh thành tích mang tính phổ biến”.
Chia sẻ với ông Kiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên dẫn ra một loạt những con số như được “vẽ ra” chỉ để tô điểm cho sự hồng hào nền kinh tế, chẳng hạn như con số tạo việc làm mới. Bất kể năm khó khăn hay thuận lợi, các con số tạo việc làm mới đều gần như nhau. Năm 2012, hàng loạt doanh nghiệp đóng cửa và giải thể nhưng số lao động được tạo việc làm mới suy giảm không là bao, khiến cho nền kinh tế lúc nào cũng rơi vào ảo tưởng thành tích.
Còn một hạn chế khác khiến nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương Lê Đăng Doanh không khỏi thắc mắc là, mọi năm, tăng trưởng tín dụng khoảng 30%, GDP mới tăng 6%. Nay tăng trưởng tín dụng quá nhỏ chưa tới 1% mà tăng trưởng GDP hầu như không bị ảnh hưởng là bao. Cứ như thể nền kinh tế khỏe đến mức không cần cung ứng tín dụng vẫn có thể tăng trưởng! Hay tỷ lệ thất nghiệp năm 2012 lại trở nên thấp nhất nhiều năm qua khi tỷ lệ này chỉ khoảng 2,2%, trong khi cả nước có hơn 100.000 doanh nghiệp kiệt quệ.
Điều mà nguyên Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên cảm thấy được an ủi hơn cả, là khi mà ông không tham gia Quốc hội thì những người kế nhiệm vẫn tiếp tục lên tiếng về sự hạn chế trong tầm nhìn và dự báo về một nền kinh tế khỏe.
Gần đây nhất là phản ứng của Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu, khi ông thẩm tra báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 do Chính phủ trình lên Quốc hội tại kỳ họp cuối năm ngoái. Chủ nhiệm Uỷ ban bày tỏ sự băn khoăn: không rõ đâu là động lực tăng trưởng của nền kinh tế khi Chính phủ cho rằng “nền kinh tế đang có dấu hiệu tích cực lên, nhất là tăng trưởng GDP quý sau tăng cao hơn quý trước”.
Bởi khi đó, trong bối cảnh các thị trường đều giảm sút, tổng vốn đầu tư toàn xã hội cả năm dự kiến bằng 29,5% GDP, thấp hơn 4% so với chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc hội và các năm trước, tín dụng tăng trưởng âm một thời gian dài, chưa bù đắp được nợ xấu gia tăng, hàng tồn kho cao, số lượng doanh nghiệp giải thể, dừng hoạt động hoặc cắt giảm lao động lớn; thị trường bất động sản, chứng khoán trầm lắng.
Và kết quả thực tế là GDP năm 2012 đã tăng ở mức thấp nhất trong hơn một thập kỷ qua. Song, muốn khắc phục sự hạn chế trong tầm nhìn cũng như dự báo để có thể tạo đà cho sự phát triển thật sự của một nền kinh tế, hiện không dễ dàng.
Bởi trong phiên chất vấn và trả lời chất vấn đối với Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư Bùi Quang Vinh hồi tháng 6 năm ngoái, một đại biểu Quốc hội có chất vấn Bộ trưởng rằng: “Vào tháng 10/2011 Bộ trưởng đã thấy khó khăn của nền kinh tế, với hàng loạt doanh nghiệp phá sản, nhưng tại sao Bộ vẫn tham mưu xây dựng chỉ tiêu kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2012 là tăng từ 6 - 6,5%?”.
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh trả lời rất khéo: “Tại sao tháng 10/2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nhìn thấy dấu hiệu khó khăn của nền kinh tế mà vẫn đề nghị với Chính phủ mức xây dựng GDP năm 2012 là từ 6-6,5%? Đúng là với mức này thì khó khăn khi thực hiện nhưng nếu để mục tiêu thấp hơn thì... Quốc hội không chấp nhận”.
Mai Xuân
TBKTVN